Ôn cũ để biết mới Nguyễn Trọng Vĩnh, 96 tuổi đời, 73 tuổi Đảng *
Những chủ trương và việc làm ngược với nguyện
vọng của dân, không phù hợp với lợi ích của đất nước làm cho dân mất
tin tưởng vào Chính phủ, vào lãnh đạo là tất yếu. Tình hình này sẽ đưa
đất nước đi đến đâu?
Từ khi thực dân Pháp xâm
lược, thống trị nước ta, dân ta sống cuộc đời nô lệ, lầm than. Đảng
Cộng sản ra đời đi vào dân, tuyên truyền, giác ngộ, tổ chức dân nhằm mục
đích phá xiềng nô lệ, giành lại độc lập tự do. Có những lúc phong trào
chưa rộng khắp và chưa đúng thời cơ nên các cuộc nổi dậy đã thất bại.
Đảng lại gượng dậy, tuyên truyền, tổ chức dân, dân vẫn theo sự lãnh đạo
của Đảng.
Những năm 1936 – 1937, tại chính quốc, “Mặt trận bình dân” do Đảng Xã hội Pháp lên
cầm quyền, không khí thuộc địa bớt nghẹt thở. Đảng chủ trương thành lập
“Mặt trận dân chủ Đông Dương”, tổ chức các hội đoàn ở thành thị và nông
thôn (chủ yếu là “Hội Ái hữu”), đưa ra khẩu hiệu đòi tự do dân chủ, dân
sinh, đòi tăng lương, ngày làm 8 giờ, bỏ cúp, phạt cho công nhân, giảm
thuế cho nông dân. Nhân dân hưởng ứng, phong trào được mở rộng.
Năm 1939, Chính phủ Bình dân ở Pháp đổ, phái hữu lên
cầm quyền lại bắt đầu khủng bố, đàn áp phong trào, lạnh lùng bắt Cộng
sản. Đảng rút vào hoạt động bí mật, đề ra chủ trương lập “Mặt trận nhân
dân phản đế”, hướng tới giải phóng dân tộc. Đảng vẫn bám dân, tuyên
truyền vận động, bất chấp bắt bớ tù đày. Dân vẫn theo Đảng, ủng hộ, che
giấu đảng viên hoạt động, cơ sở Cách mạng được giữ vững, phong trào tạm
lắng xuống. Đến khi đồng chí Nguyễn Ái Quốc về nước, thành lập “Mặt trận
Việt Nam độc lập đồng minh” gọi tắt là Việt Minh, phong trào mở rộng ra
khắp cả nước tạo nên lực lượng to lớn đồng loạt nổi dậy làm nên cuộc
Cách mạng tháng Tám thành công.
Điểm lại quá trình trên
đây để thấy rằng: dưới chế độ thực dân thống trị hà khắc, chỉ có đàn áp,
khủng bố, Đảng Cộng sản không có chút quyền hành nào, không thể ra lệnh
được cho ai mà vẫn làm lãnh đạo được dân, được dân tin tưởng. Được thế
là vì chủ trương của Đảng đưa ra hợp với nguyện vọng của dân và từ lãnh
đạo đến đảng viên một lòng vì dân vì nước, sẵn sàng hi sinh, không chút
vụ lợi cá nhân nào.
Cách mạng tháng
Tám thành công, Chính phủ lâm thời được thành lập do Chủ tịch Hồ Chí
Minh đứng đầu và đọc Tuyên ngôn Độc lập, khai sinh nước Việt Nam Dân chủ
Cộng hòa. Lúc đó lực lượng vũ trang còn ít ỏi, tản mát ở cá địa phương,
tiền chỉ có hơn 1 triệu đồng, nạn đói chưa chấm dứt, đê sông Hồng bị
vỡ. Mọi chi tiêu của Chính phủ đều nhờ sự ủng hộ của các nhà hảo tâm yêu
nước. Tình hình rất khó khăn. Trung ương chủ trương mở “Tuần lễ vàng”,
Hồ Chủ tịch kêu gọi nhân dân ủng hộ để lấy tiền mua sắm vũ khí giữ nước
và đáp ứng chi tiêu của Nhà nước, nhân dân hăng hái quyên góp, những nhà
giàu như các ông Trịnh Văn Bô, Nguyễn Văn Đước, Nguyễn Thị Năm,
v.v. ủng hộ hàng trăm lạng vàng, người trung bình tháo vòng xuyến,
khuyên tai ủng hộ, người có chiếc nhẫn, thậm chí tháo răng vàng đóng
góp.
Tiếp đó 20 vạn quân Tàu
do tướng Lư Hán và Tiêu Văn kéo vào rải rác đến vĩ tuyến 16, danh nghĩa
là để giải giáp quân đội Nhật đã đầu hàng “Đồng minh”, mang theo cả chỉ
thị của Tưởng Giới Thạch “diệt cộng cầm Hồ” (diệt cộng sản, bắt Hồ Chí
Minh). Bọn Quốc dân Đảng, Việt Nam Cách mạng đồng minh hội thân Tàu,
thành lập từ Trung Quốc cũng vào theo hòng mượn oai quan thầy giành lại
chính quyền từ tay Việt Minh. Tình thế Chính phủ ta bấy giờ như “ngàn
cân treo sợi tóc”. Các đảng viên và hội viên Việt Minh tích cực phân
công nhau tỏa vào nhân dân thông báo tình hình, vận động quần chúng biểu
tình ủng hộ Chính phủ Hồ Chí Minh. Thế là nhân dân Hà Nội và dân các
tỉnh xung quanh kéo vào trung tâm thủ đô đến 50 vạn người biểu tình tuần
hành, hô vang khẩu hiệu “ủng hộ Việt Minh”, “ủng hộ Chính phủ Hồ Chí
Minh” ngày ngày qua ngày khác. Khí thế hừng hực, sức mạnh của 50 vạn dân
đã vô hiệu hóa ý đồ của bọn Lư Hán, Tiêu Văn và bọn Việt quốc, Việt
cách. Chính cuộc biểu tình yêu nước vĩ đại cùng với tài ngoại giao của
Bác Hồ đã giúp Chính phủ cụ Hồ của chúng ta thoát khỏi hiểm nghèo và
đứng vững.
Thế mà biểu tình yêu nước ngày nay lại bị đàn áp.
Quá trình vận động
cách mạng cho đến khi giành được chính quyền cho thấy mối quan hệ giữa
Đảng với dân, giữa dân với Đảng, phải khăng khít như một. Dân không có
sự lãnh đạo của Đảng thì chỉ là đám đông đảo rời rạc, không thành sức
mạnh, dân phải được Đảng tuyên truyền, giác ngộ tập hợp thành tổ chức
phát động lên mới thành sức mạnh; Đảng không có dân thì cũng không có sức mạnh nào, cũng không thể làm nên sự nghiệp gì.
Thực tiễn đã chứng minh như vậy, không ai phủ nhận được.
Khi Đảng đưa ra chủ trương hợp với nguyện vọng của dân thì dân nhiệt liệt hưởng ứng và tự giác làm theo.
Pháp và Trung Hoa
dân quốc ký thỏa thuận với nhau, Đảng và Hồ Chủ tịch chủ trương nhân
nhượng cho Pháp đưa 1.500 quân ra Bắc thay quân Tàu, để đuổi quân Tàu
rút nhanh khỏi nước ta, bớt đi một kẻ thù. Sau khi quân Tàu Tưởng rút
đi, thực dân Pháp gây hấn, đem quân viễn chinh sang hòng cướp nước ta
một lần nữa. Đảng chủ trương quyết đánh Pháp giữ vững độc lập tự do,
ngày 19/12/1946 Hồ Chủ tịch kêu gọi toàn dân kháng chiến, trong lời kêu
gọi của Người có câu: “Chúng ta thà hi sinh tất cả chứ nhất định không
chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ”. Toàn dân một lòng theo
Đảng: nam nữ Thủ đô “quyết tử cho tổ quốc quyết sinh”, trai tráng cả
nước nô nức tình nguyện đi bộ đội chiến đấu, nông dân hăng hái đóng thóc
nuôi quân, trung niên, thanh nữ tầng tầng lớp lớp đi tiếp lương, tải
đạn phục vụ chiến trường… Qua 9 năm gian khổ, dưới sự lãnh đạo của Đảng và Hồ Chủ tịch, quân dân ta đã đánh thắng thực dân Pháp, giải phóng hoàn toàn miền Bắc.
Sau thắng Pháp, Đảng chủ
trương “xây dựng miền Bắc, giải phóng miền Nam”… Dân vẫn theo sự lãnh
đạo của Đảng vừa tích cực khôi phục kinh tế, củng cố miền Bắc vừa tiếp
tục cùng đồng bào miền Nam chiến đấu. Khi đế quốc Mỹ đổ quân vào với
khối lượng vũ khí phương tiện hiện đại to lớn, chiến tranh vô cùng ác
liệt, qua chặng đường dài mưa bom, bão đạn tàn khốc, cuối cùng dưới sự
lãnh đạo của Đảng, quân dân ta đã thực hiện được mục tiêu “Đánh cho Mỹ
cút, đánh cho ngụy nhào”, Bắc Nam sum họp một nhà.
Trong thời kỳ hoạt động
bí mật, dưới sự thống trị của thực dân Pháp và qua hai cuộc kháng chiến
thắng lợi cho thấy: “Chỉ cần chủ trương của Đảng hợp với nguyện vọng của
dân thì dân tin theo, Đảng vẫn lãnh đạo được dân, không cần phải có uy
quyền, cũng không cần phải có điều 4 ghi trong Hiến pháp”.
Khi thực dân Pháp trở
lại xâm lược nước ta, chúng có đủ tàu chiến, máy bay, xe tăng, đại bác,
ban đầu ta chỉ có gậy tầm vông và vũ khí bộ binh ít ỏi; đế quốc Mỹ có 50
vạn quân, không kể quân chính quyền, quân ngụy, tàu chiến, máy bay, xe
tăng, vũ khí phương tiện hiện đại hơn ta rất nhiều lần. Cuối cùng cả
Pháp và Mỹ đều chịu thất bại. Điều đó chứng thực rằng chỉ có ưu thế
tuyệt đối về vũ khí và phương tiện chiến tranh không thôi, cũng không
quyết định được chiến thắng. Bá quyền nước lớn Trung Quốc, có lực lượng
hải quân hơn ta tuyệt đối, bắt nạt ta, đe dọa ta, ta không việc gì phải
sợ.
Đáng tiếc, sau khi
giải phóng miền Nam, chủ trương cải tạo công thương nghiệp triệt tiêu
mất tính năng động của một vùng kinh tế, ở miền Bắc thì chậm xóa bỏ bao
cấp, vẫn giữ hợp tác xã nông nghiệp kiểu cũ “bình công chấm điểm”, kìm
hãm sản xuất cho nên có một thời gian kinh tế tiêu điều, đời sống khó
khăn. Đó cũng là vì “không hợp nguyện vọng của dân”. Năm 1981,
Trung ương ra “Chỉ thị 100”, nông dân được tự do sản xuất trên ruộng
đất của mình, lương thực, thực phẩm tăng, đời sống bớt khó khăn. Đến năm 1986,
Đảng ta đổi mới tư duy, xóa bỏ bao cấp, xóa bỏ hợp tác xã nông nghiệp
kiểu cũ, mở rộng nhiều thành phần kinh tế. Nhờ đó kinh tế có phát triển,
đời sống khá hơn và cũng nhờ đó khi Liên Xô và các nước Đông Âu sụp đổ
Việt Nam ta vẫn đứng vững.
Nhưng đang tiếc là từ 10 năm lại đây, tiêu cực ngày càng phát triển, đã có nhiều việc làm và chủ trương không như mong muốn của dân.
Phá hội trường Ba Đình, di tích lịch sử quan trọng nhất của nước ta, không phải là nguyện vọng của dân.
Ký cho Trung Quốc khai
thác bôxít Tây Nguyên, chiếm lĩnh cao điểm chiến lược quan trọng của
Đông Dương, phá hoại môi trường, di họa bùn đỏ cho hàng triệu đồng bào,
mất không tài nguyên mà chẳng được lợi lộc gì, có khi còn lỗ vốn, không
phải là nguyện vọng của dân.
Mở rộng thủ đô quá lớn, sáp nhập cả một tỉnh nông nghiệp, không phải là nguyện vọng của dân.
Bán (cho thuê 50 năm) rừng đầu nguồn, biên giới, không phải là nguyện vọng của dân.
Thu hồi bờ xôi ruộng mật
của nông dân, làm giàu cho các kẻ đầu tư địa ốc, nông dân thất nghiệp,
không phải là nguyện vọng của dân.
Phát triển đô thị quá
mức, xây nhà cao tầng, tràn lan thừa ế mà công nhân và người thu nhập
thấp không thể mua được nhà ở, không phải là nguyện vọng của dân.
Nước ta hẹp mà phát triển 120 sân gôn, phục vụ cho một số người giàu, mất bao nhiêu là đất, không phải là nguyện vọng của dân.
Cho các công ty Trung
Quốc trúng thầu hàng loạt công trình, đưa vào máy móc thiết bị cũ, kỹ
thuật lạc hậu, tự do đưa vào hàng vạn lao động phổ thông (phần nhiều là
lính phục viên) rải khắp nơi (là thủ đoạn di dân) nguy hiểm cho an ninh
quốc phòng, không phải là nguyện vọng của dân.
Học phí tăng cao, viện
phí tăng cao mà bệnh nhân 2, 3 người nằm 1 giường, giá cả nhiều thứ tăng
vọt, không phải là nguyện vọng của dân.
Các tập đoàn kinh tế nhà
nước được rót vốn rất lớn mà đa số thua lỗ, thất thoát hàng nghìn tỉ,
các ngân hàng có nợ khó đòi cũng thất thoát hàng nghìn tỉ, nợ nước ngoài
chồng chất mà hiệu quả kinh tế không nhiều… trách nhiệm quản lý điều
hành thuộc về ai?
Những chủ trương và việc
làm ngược với nguyện vọng của dân, không phù hợp với lợi ích của đất
nước làm cho dân mất tin tưởng vào Chính phủ, vào lãnh đạo là tất yếu.
Tình hình này sẽ đưa đất nước đi đến đâu?
Thêm vào đó còn nhiều điều gây bức xúc nữa.
- Mất dân chủ. Dân không
dám nói sự thật, không được biết sự thật, báo chí lề phải không được
thông tin tự do, không được bình luận trái với chủ trương của Chính phủ,
của lãnh đạo, hàng nghìn ý kiến can ngăn việc làm và chủ trương sai
trái không được tiếp thu, hàng chục kiến nghị có tính xây dựng không
được xem xét, dân không được ứng cử tự do theo Hiến pháp. Các chức danh
đưa ra để bầu thì đã được định trước, bỏ phiếu chỉ là hình thức, hơn nữa
chỉ độc diễn thì làm gì có lựa chọn, v.v.
- Trung Quốc mồm thì nói
hữu nghị, nhưng làm biết bao nhiêu việc trái lại, thiệt hại cho ta, mà
lãnh đạo nín nhịn mãi, lấn biển, cướp đảo, bắt, bắn ngư dân, đâm chìm,
bắt tàu cá, gây hấn, hoành hành ngang ngược, dân không được đấu tranh
yêu nước, biểu tình thì bị đàn áp.
- Giá cả mọi thứ tăng
cao, con cá, lá rau cũng đắt gấp 2, 3 lần; đời sống người nghèo, người
có thu nhập thấp, khốn khổ hết chịu nổi, người thu nhập trung bình cũng
phải thắt lưng buộc bụng. Người nắm quyền thì nhà to đất rộng, trang
trại dinh thự, mà công nhân không có nhà ở, người nghèo kiếm được căn ổ
chuột cũng khó.
Nếu bức xúc tích lũy kéo dài, người dân bị dồn nén quá ngưỡng, liệu đến lúc nào đó có “tức nước vỡ bờ” không?
Thực trạng trên đây đòi hỏi có sự cải cách quyết liệt thì mới đưa đất nước tiến lên được.
1 – Phải thật tâm chỉnh đốn Đảng, trước hết là bộ phận nắm quyền từ dưới lên
trên, , đặc biệt quan trọng là bộ phận nắm quyền cao nhất, để có bộ
phận chủ chốt trong sạch, dùng chức quyền lo cho dân cho nước thay vì lo
làm giàu cho cá nhân, gia đình, họ hàng, thân thuộc. Cần thay đổi, điều
chỉnh để những vị trí quan trọng phải do những người thực sự có tâm
huyết, có thực tài đảm nhiệm; ai trót có sai phạm thì nên tự xét, hồi
tâm chuyển ý, rũ bỏ lợi ích nhóm, lợi ích cá nhân, sửa mình, làm tốt bất
cứ nhiệm vụ gì đảm nhiệm.
Bộ phận nắm quyền chủ chốt phải nhìn thẳng
vào sự thật, đồng hành với dân, khiêm tốn, không biểu thị uy quyền,
không cho mình là giỏi nhất, đúng nhất, phát huy bản tính tự lực, tự
cường, tinh thần độc lập tự chủ, hết lòng lo cho đời sống và phúc
lợi của dân, cho sự giàu mạnh của Tổ quốc. Chính phủ chân chính, dân
chủ, chí công vô tư thì không bao giờ xảy ra “hoa nhài, hoa sói…”, không
phải đề phòng đối với dân.
2 – Thực hiện dân
chủ, có tự do ngôn luận, tự do báo chí, tự do lập hội, tự do biểu tình
như Hiến pháp đã ghi để lấy lại lòng tin của dân, tạo không khí hồ hởi
chung tay xây dựng, phát triển đất nước. Dân và báo chí được nói thẳng
nói thật, lãnh đạo không ngại phân biệt công khai, nghe nhiều, cấm ít,
từ đó chắt lọc lấy kế hay ý tốt, kịp thời sửa chữa chủ trương, chính
sách không phù hợp, thực sự cầu thị thì mới tiến lên được. Độc đoán chuyên quyền chỉ là đi vào ngõ cụt.
3 – Trọng dụng nhân tài.
Trong nước ta cũng có nhiều chuyên gia kinh tế giỏi, trí thức có chân
tài, thực học, trong kiều bào không thiếu những trí thức ưu tú có tâm
huyết với Tổ quốc. Cần trân trọng và trọng dụng họ để họ đóng góp cho
công cuộc phát triển, quản lý đất nước; có những phòng thí nghiệm chuẩn
để trí thức nghiên cứu, phát minh sáng chế góp phần vào sự nghiệp hiện
đại hóa đất nước.
4 – Thực hiện đúng chính
sách ngoại giao mà Đảng và Nhà nước đã đề ra. Hợp tác hữu nghị với
Trung Quốc đồng thời cũng hợp tác hữu nghị với các nước lớn khác. Các
nước làm ăn với nước ta phải tôn trọng chủ quyền của nước ta, tuân thủ
luật pháp của nước ta, Trung Quốc cũng vậy. Hợp tác cũng có đấu tranh.
Ta không chủ trương đối đầu quân sự với Trung Quốc, nhưng ta phải đấu
tranh công khai với Trung Quốc để bảo vệ chủ quyền biển đảo của ta.
Những cứ liệu lịch sử và pháp lý của ta, ta cần tuyên truyền rộng rãi ra
thế giới, trong dân ta với cả nhân dân Trung Quốc, để rõ chính nghĩa
thuộc về ta. Trong làm ăn kinh tế cần phấn đấu để thoát ra khỏi sự lệ
thuộc vào Trung Quốc. Cần dừng ngay dự án bôxít Tây Nguyên, vô cùng nguy
hiểm và thiệt hại cho nước ta. Trong thế cô lập trước thế giới hiện nay
cũng như trong nội bộ Trung Quốc đầy rẫy mâu thuẫn dễ bùng nổ đương tồn
tại, Trung Quốc chưa dám tùy tiện đánh ta dù hung hăng đe dọa. Chúng ta
cũng cần tăng cường thích đáng lực lượng hải quân của mình phòng khi
vạn bất đắc dĩ phải nghênh chiến theo tinh thần và truyền thống “lấy ít
địch nhiều, lấy nhỏ thắng lớn” của nhân dân ta. Thực tiễn đã chứng minh
chỉ có ưu thế về vũ khí và phương tiện chiến tranh hiện đại không thôi,
vẫn thất bại.
5 – Gắn bó với dân, xóa
bỏi mọi thành kiến, thực hiện đại đoàn kết dân tộc, huy động mọi tiềm
năng và trí tuệ của đồng bào trong, ngoài nước chung tay thực hiện dân
giàu nước mạnh, xã hội công bằng dân chủ văn minh.
N. T. V.