Thứ Bảy, 19 tháng 7, 2014

2014 Hạnh phúc-

Hạnh phúc- Vercion Marcel
1/ Thi đim nào là hnh phúc nht?
Chúng ta thường cho rng cuc sng s tt đp và có ý nghĩa hơn mt khi chúng ta lp gia đình, sinh con
Sau đó chúng ta v mng vì con cái chúng ta còn quá nh, và t nh rng mi vic s tt đp hơn mt khi chúng ln khôn.
Và chúng ta li tht vng khi con cái ca mình đến tui niên thiếu vì chúng ta li phi chăm sóc và lo lng cho chúng. Chc chn chúng ta s hnh phúc hơn khi các con trưởng thành.
Chúng ta li t nh rng cuc sng ri s tt đp hơn mt khi gia đình được n đnh, khi chúng ta tu được mt chiếc xe đp hơn, khi chúng ta đi ngh hè thoi mái, và cui cùng là khi chúng ta được v hưu. S tht là không có mt thi đim nào tt đp và hnh phúc bng hin ti c.
Nếu không đúng, vy thì thi đim nào là hnh phúc nht?
Cuc sng ca bn luôn b quay cung bi các thách đ, các đòi hi và yêu cu. Tt nht là bn nên nhn thy rng hin ti là thi gian hnh phúc nht ca mình mc dù cuc sng đy ry khó khăn và mun phin.
2) Hnh phúc là hành trình, ch không phi là đim đến.
Mt thi gian rt lâu, tôi c ng rng cuc đi ca tôi sp bt đu. Mt cuc đi, cuc sng tht s.
Nhưng lúc nào cũng có nhiu vic xy đến, mt th thách phi vượt qua, vài công vic còn phi hoàn tt, vài vic khác cn phi phân chia, còn vài hóa đơn phi thanh toán. Sau đó, thì cuc sng ca ta s bt đu
Cui cùng tôi mi khám phá ra rng, chính nhng s vic này là mt phn ca đi sng chúng ta
T cái nhìn này tôi thy được rng không có con đường nào đi đến hnh phúc c.
Hnh phúc chính là con đường mà chúng ta đang đi.. đó là sng vi  TÂM  HIN TI.
Do đó, hãy trân quý và hưởng mi phút giây trong gi phút HIN TI
Không nên ch đi na, ch đi tt nghip ra trường, ch đi ngày tr li trường, ch đi xung thêm vài ký, lên thêm vài ký, ch đi vic làm mi, ch đi ngày kết hôn, mong đi đến ti th sáu, sáng ch nht, mt chiếc xe mi, đi tr n xong, trông ch xuân đến, h v, đi đến đu tháng, cui tháng, đi nghe bn nhc hay trong radio, ch ngày t gi cõi đi, ngày tái sinh …… trước khi quyết đnh sng tht hnh phúc.
Không có mt gi phút nào quý cho bng… Sng HIN TI! Hãy sng và hưởng tng giây phút. Hnh phúc là hành trình, ch không phi là đim đến !
3) Ai là người có ý nghĩa đc bit trong cuc sng ca bn?
Chúng ta hãy suy nghĩ và c gng tr li các câu hi sau:
-          Bn hãy nêu ra tên 5 người giàu nht thế gii.
-          Tên ca 5 Hoa hu thế gii
-          Tên 10 người lãnh gii Nobel gn đây nht
-          Tên 10 người lãnh gii Oscar gn đây nht.
Bn không tr li được? Có tht s khó không?
Không sao c, không ai có th nh nhng điu này.
Các tràng pháo tay ri cũng chm dt !
Các gii thưởng cũng s đóng bi !
Các quán quân hoc k thng cuc ri cũng s b quên lãng.
Chúng ta li th tr li các câu sau đây :
-          Bn hãy nêu tên 3 thy, cô trong cuc đi bn.
-          Tên 3 người bn đã tng giúp bn trong nhng giây phút khó khăn nht.
-          Hãy nghĩ đến vài người đã tng cho bn nhng cm giác đc bit.
-          Và 5 người mà bn lúc nào cũng mun gn gũi.
Và các câu này có v d tr li hơn, phi không bn?
Nhng người có ý nghĩa đc bit trong cuc sng ca bn, không phi là nhng người “gii nht”, h cũng không là người giàu nht, và cũng không đot được mt gii thưởng nào c
H là nhng người nghĩ đến bn, lo lng cho bn và luôn bên cnh bn khi bn cn đến.
4/  Tinh thn “c hai cùng thng” (win-win)
Cách đây rt lâu, mt cuc thi Thế Vn Hi ti Seattle, có 9 nhà đin kinh kho mnh và cường tráng tham gia, h chun b bt đu cuc thi chy b 100 m.
Tiếng súng n báo hiu cuc thi bt đu. Không phi tt c mi người đu chy, nhưng tt c mi người đu mun tham gia và mun thng cuc đua.
Tt c mi người bt đu chy, nhưng có mt thanh niên trt chân và ngã qu xung, và cu ta bt đu khóc.
Tám người kia nghe tiếng khóc .
H chy chm li, quay đu li nhìn .
Cui cùng h ngưng chy và quay tr li… Tt c 8 người
Mt cô gái ngi xung và hi chàng thanh niên b trt té, ”Đã thy đ chưa?“. Sau đó, tt c 9 người vai sánh vai cùng nhau bước đến ln mc thng
Tt c khán gi đu đng lên và đng lot v tay. Và tràng v tay đã kéo dài rt lâu
Tt c mi người chng kiến s vic ngày hôm đó, thường k li chuyn này cho người khác nghe. Ti sao vy?
Vì tn cùng trong thâm tâm ca chúng ta đu hiu rng, điu quan trng nht trong cuc sng không phi là thng cuc.
Điu quan trng nht trong cuc sng là giúp k khác thng. Mc dù vic này có làm chm công vic ca chúng ta hoc thay đi cuc thi đua.
“Mt ngn nến không b mt giá tr khi nó được dùng đ mang ánh sáng đến cho người khác.
  


Thứ Bảy, 5 tháng 7, 2014

2014 Nguòi Việt ờ Trung quốc

CỘNG ĐỒNG NGƯỜI KINH Ở TRUNG QUỐC
hoặc :
Xúc động khám phá cộng đồng Người Kinh ở Trung Quốc(chú ý: trang web trên không phải chính thức của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng)
image
Xúc động khám phá cộng đồng Người Kinh ở Trung Quốc
Đối với chúng ta, rất ít người biết có một cộng đồng rất nhỏ (khoảng 22,000) người Jing (người Kinh) sống ở Tam Đảo (Quảng...
Preview by Yahoo

Xem thêm Youtube :

Jing Song - Qua Cầu Gió Bay 过桥 风吹


(Xã hội / TruongSaHoangSai) (28/06/2014) - Đối với chúng ta, rất ít người biết có một cộng đồng rất nhỏ (khoảng 22,000) người Jing (người Kinh) sống ở Tam Đảo (Quảng Tây, Trung Quốc) là một “khám phá” gây nhiều cảm xúc. Rồi lúc được biết họ đã rời xa Việt Nam 500 năm mà vẫn cố gắng duy trì bản sắc văn hóa dân tộc Việt trước sức đồng hóa rất mạnh của TQ, xem những điệu múa, đánh đàn bầu, nghe họ hát tiếng Việt làm ta xúc động…

Vào khoảng thế kỷ 16, có một số người Việt di cư lên phía bắc lập nghiệp ở vùng Trường Bình – Bạch Long. Vùng đất đó bấy giờ thuộc Đại Việt nhưng theo Công ước Pháp-Thanh ký năm 1887 giữa Pháp và nhà Thanh thì Trường Bình bị sáp nhập vào nước Trung Hoa. Người Kinh tại đây là một trong số 56 dân tộc được công nhận tại Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa.

Người Kinh ở Trung Quốc mặc áo dài truyền thống
Thời gian trôi qua, nhóm người Việt này đã bị ảnh hưởng văn hóa Trung Hoa. Tuy vậy họ vẫn nói tiếng Việt. Họ sinh sống chủ yếu trên 3 đảo (Vạn Vĩ, Sơn Tâm và Vu Đầu), gọi chung là Kinh tộc Tam Đảo, thuộc thị xã Đông Hưng, khu tự trị người Choang Quảng Tây (cách cửa khẩu Móng Cái của Việt Nam chừng 25 km) nhưng tiếng Việt của họ đã pha trộn nhiều với tiếng Hoa kèm với nhiều từ cổ của tiếng Việt.
Họ được coi là cộng đồng người Kinh chủ yếu và còn mang nhiều bản sắc văn hóa Việt Nam nhất tại Trung Quốc với tư cách là một trong 56 dân tộc của đất nước này (không bao gồm cộng đồng người Việt mang quốc tịch Việt Nam hiện đang học tập và làm việc tại Trung Quốc)
Tại Quảng Tây nói riêng và Trung Quốc nói chung, tên gọi “Kinh tộc Tam Đảo”, có nghĩa là “Ba hòn đảo của người Kinh”, hiện vẫn được dùng tương đối phổ biến để chỉ cộng đồng người Kinh này cũng như để chỉ địa bàn sinh sống tập trung của họ tại ba hòn đảo nói trên (nay đã trở thành bán đảo do phù sa bồi lấp và nhờ chính quyền cùng nhân dân địa phương đã đắp đê, làm đường nối các đảo với đất liền).

Vị trí Tam Đảo mà người Kinh sinh sống
Với lịch sử định cư trải qua hơn 500 năm, hầu hết cư dân người Kinh ở khu vực Tam Đảo (Vạn Vĩ, Vu Ðầu và Sơn Tâm) cũng như một vài nơi khác ở Quảng Tây (chủ yếu tập trung tại Đông Hưng) đều có chung nguồn gốc là người Đồ Sơn (Hải Phòng, Việt Nam), còn lại số ít người Kinh trong đó có nguồn gốc từ một vài địa phương ven biển của Việt Nam di cư đến. Theo điều tra dân số tại Trung Quốc vào năm 2000, dân số người Kinh riêng tại khu vực nói trên là khoảng hơn 18.000 người trong tổng số trên dưới 22.000 người dân tộc Kinh trên toàn lãnh thổ Trung Quốc, một con số được coi là rất khiêm tốn nếu so với nhiều dân tộc khác đang cùng sinh sống trên đất nước đông dân nhất thế giới này.

Người Kinh tại Trung Quốc
Dòng họ Tô là một dòng họ lớn và được xem là có ảnh hưởng nhất trong cộng đồng các dòng họ người dân tộc Kinh tại Quảng Tây nói riêng và Trung Quốc nói chung. Họ Tô là một trong 12 dòng họ người Kinh hay còn gọi là người Việt gốc Đồ Sơn (Hải Phòng, Việt Nam). Nhiều người trong họ Tô đã có công nghiên cứu, bảo tồn và quảng bá các giá trị đặc sắc của văn hóa truyền thống của người Kinh đồng thời cũng là cội nguồn của văn hóa Việt Nam đến nhiều nơi trên đất nước Trung Quốc rộng lớn dù cho dân số của người Kinh tại Trung Quốc là rất khiêm tốn nếu so với nhiều cộng đồng dân tộc khác của đất nước này. Trải qua hơn 500 năm định cư trên đất Trung Quốc, hiện dòng họ Tô cũng như một số dòng họ người Kinh khác không chỉ tập trung sinh sống tại khu vực Tam Đảo (Vạn Vĩ, Vu Đầu và Sơn Tâm) mà đã phân tán ra nhiều địa bàn khác quanh khu Phòng Thành Cảng của tỉnh Quảng Tây.

Người Kinh đánh trống trong một lễ hội
Ngôn ngữ
Người Kinh tam đảo vốn nói tiếng Kinh hay tiếng Việt và sử dụng phổ biến chữ Nôm, nhưng từ lâu họ cũng nói tiếng địa phương là tiếng Quảng Đông và sử dụng Hán tự. Tuy nhiên, về ngữ pháp, người Kinh không nói ngược như dân Hán mà vẫn nói xuôi theo lối giao tiếp của người Việt.
Phong tục
Y phục của người Kinh đơn giản và thực tế. Phụ nữ ăn mặc theo cổ truyền với những chiếc áo ngắn, không cổ, chẽn bó vào thân mình, cài nút phía trước, mặc những tấm quần rộng nhuộm đen hay nâu. Khi ra ngoài, phụ nữ thường mặc thêm áo dài tay chật nhuộm màu sắc nhạt hơn. Họ thích đeo khuyên tai, tóc rẽ ngôi ở giữa dùng vải đen hay khăn đen bọc lấy và vấn xung quanh đầu. Dân quê còn đi chân đất. Còn đàn ông thì thường mặc áo cộc để làm việc, cổ quấn khăn, nhưng khi có hội hè thì họ mặc những áo dài chùng tới gối, hai vạt trước sau đối nhau và có giải quấn ở eo lưng.
Ngày nay, người Kinh ăn mặc giống như người Hán láng giềng, mặc dù còn một số người già còn giữ lối ăn mặc theo cổ tục và một thiểu số phụ nữ trẻ còn vấn tóc và nhuộm răng đen vì vẫn còn tục ăn trầu, còn đàn ông thì ăn mặc thực tế theo hiện đại như những dân lân cận khác.
Phong tục hôn nhân thì một vợ, một chồng, thuở trước thì thường do cha mẹ hai bên xếp đặt bao biện. Trai gái cùng họ và anh em cô cậu cấm lấy nhau.

Dân tộc Kinh tại Trung Quốc
Ẩm thực
Về ẩm thực, người Kinh ở Tam Đảo ăn cơm là chính, ngoài ra còn ăn khoai sắn, khoai sọ, thích ăn các loài hải sản như cá, tôm, cua. Đặc biệt, họ làm nước mắm từ cá biển để chấm và nêm thức ăn. Những món ăn ưa thích của họ là bánh đa làm bằng bột gạo có rắc vừng nướng trên than hồng mà sách Trung Quốc gọi là phong xuy hỉ (bánh phồng do gió thổi) và bún riêu, bún ốc sách Hán tự ghi là hỉ ty tức là sợi bún nấu với canh cua và ốc.
Tín ngưỡng, tôn giáo
Tôn giáo chủ yếu là Phật giáo đại thừa và Đạo giáo. Ngoài ra họ còn duy trì tục cúng thần linh và tổ tiên.

Trong một lễ hội
Sinh hoạt văn hóa
Họ ưa thích lối hát đối đáp giao duyên (antiphonal songs) nghe du dương và trữ tình, kiểu như hát Quan họ hay hát đúm quen thuộc ở miền Bắc Việt Nam bây giờ. Lối hát đúm hát đối này thường được tổ chức vào ngày Tết, ngày Hội. Nhạc cụ cổ truyền của người Kinh gồm có đàn nhị (two-stringed fiddle), sáo trúc, trống, cồng và đàn bầu (độc huyền cầm) là một nhạc khí chỉ riêng Kinh tộc có mà thôi. Họ có một kho tàng văn học dân gian truyền khẩu phong phú với ca dao, tục ngữ, truyện cổ tích… Những điệu múa ưa chuộng của người Kinh là múa đèn, múa gậy sặc sỡ nhiều màu, múa rồng và múa y phục thêu thùa.

Y phục và nhạc cụ của người Kinh tại Quảng Tây
Đời sống kinh tế
Người Kinh tại khu vực Tam đảo hoạt động chủ yếu trong các ngành như ngư nghiệp (đánh bắt, nuôi trồng hải sản, nông nghiệp, dịch vụ du lịch. Ngoài ra, một bộ phận dân cư hoạt động trong lĩnh vực du lịch, dịch vụ.
Trong 700 loại cá đánh ở đây thì hơn 200 loại có giá trị kinh tế cao và thu hoạch nhiều. Ngọc trai, cá ngựa và sea otters sinh sản lắm ở đây và thường quí về phương diện dược liệu. Nước biển của vịnh Bắc Bộ tốt cho sự làm muối. Mùa màng chính ở đây là gạo, khoai lang, đậu phọng, khoai sọ, và kê. Những loại trái cây bán nhiệt đới như đu đủ, chuối, nhãn thì rất nhiều. Những khoáng sản dưới đất gồm sắt, monazite, titanium, magnetite và silica. Những giải rộng của rừng tràm mọc trên vùng nước lợ là một nguồn lợi phong phú về chất tannin dùng làm nguyên liệu tất yếu cho kỹ nghệ thuộc da.
Người Việt Nam cho dù ở đâu vẫn là người Việt Nam!