Thứ Tư, 12 tháng 6, 2013

2013 Cầu bình an

Mỗi ngôn ngữ có một cách khác nhau để diễn đạt tư tưởng. Trong lời chào hỏi thông thường, người Trung Hoa hỏi đã dùng cơm hay chưa? Người Pháp, nếu chúng ta dịch nghĩa đen thì câu hỏi thăm là, "Đi đứng như thế nào?" Người Việt chúng ta hỏi có mạnh khỏe hay không. Người Do-thái và một số quốc gia ở Trung Đông thì lời chào là bình an hay chúc bình an. Bình an hay an bình là một trong những điều chúng ta cần nhất trên đời, nhất là trong những ngày mà thế giới dẫy đầy những xôn xao và bất an. Chúng ta thường hiểu bình an hay hòa bình là phản nghĩa của chiến tranh hay nói khác đi, hòa bình là tình trạng không chiến tranh, nhưng thực tế không nhất thiết như vậy vì có những nơi đang có chiến tranh mà người ta vẫn bình an và ngược lại, có những chỗ rất an bình nhưng con người vẫn bất an. Bình an vì vậy là một trạng thái của tâm hồn chứ không phải là hoàn cảnh.
Chữ "bình an" trong tiếng chào của người Do-thái chẳng những mang ý nghĩa an bình nhưng cũng nói lên ý niệm hòa hợp và hài hòa như hợp âm trong một khúc nhạc hay màu sắc của một bức tranh. Hài hòa, hòa nhịp với nhau, đó là hình ảnh đích thực của bình an hay hòa bình. Trong gia đình khi vợ chồng, cha mẹ con cái, anh chị em sống hòa hợp với nhau, chúng ta có an bình. Tương tự như vậy trong mọi mối quan hệ giữa người với người. Mối quan hệ giữa con người chúng ta với Thiên Chúa cũng giống như vậy. Nếu tâm hồn, tư tưởng, đường lối của chúng ta hòa hợp với tư tưởng, đường lối của Thiên Chúa, chúng ta sẽ có hòa hợp và an bình. Ngược lại, chỉ có xôn xao và bất an. Trong kinh nghiệm chúng ta thấy rằng xôn xao và bất an là tình trạng thường xuyên của con người mà lý do là vì đường lối và nếp sống của chúng ta không phù hợp với đường lối của Thiên Chúa là Đấng đã tạo dựng chúng ta. Chẳng những không phù hợp, chúng ta còn đi ngược lại và chống đối Thiên Chúa. Chúng ta tự đặt mình vào tư thế địch thù với Đức Chúa Trời. Chúng ta ở trong tư thế thù nghịch với Đức Chúa Trời vì Đức Chúa Trời là Đấng thánh khiết mà chúng ta là con người tội lỗi. Hai điều nầy không thể nào hòa hợp với nhau được như ánh sáng với bóng tối. Nếu có ánh sáng thì không có bóng tối và chỗ nào có bóng tối thì không thể có ánh sáng.
Con người vẫn ở trong tư thế nghịch thù với Thiên Chúa như vậy cho đến 2,000 năm trước, Chúa Giê-xu vào đời, mang hình hài thể xác của con người, chịu chết thế cho con người để giải hòa con người với Đức Chúa Trời. Kinh Thánh gọi Chúa Giê-xu là sự hòa bình của chúng ta. Nói như vậy nghĩa là Chúa Giê-xu đã giải hòa chúng ta với Đức Chúa Trời qua sự chết của Ngài. Những bộ lạc trong vùng Papua New Guinea thường hay tranh chiến với nhau và mỗi khi ngưng chiến họ thường bày tỏ thiện chí bằng cách mỗi phe trao đổi cho phe bên kia một đứa bé của bộ lạc mình. Về sau, nếu hai bộ lạc có đánh nhau, người ta sẽ dùng hai đứa bé đó để thương thuyết. Đứa bé trao đổi trong cuộc chiến ở Papua New Guinea gọi là "Em Bé Hòa Bình" hàm ý em bé tạo hòa bình hay em bé đem lại hòa bình. Khi Chúa Giê-xu giáng trần làm người 2,000 năm trước, Ngài chính là em bé hòa bình đó. Ngài giải hòa chúng ta với Đức Chúa Trời thánh khiết bằng cách mang tội và chịu chết thế cho chúng ta. Được giải hòa với Đức Chúa Trời rồi, chúng ta mới có hòa bình trong tâm hồn và có thể sống trong hòa bình, an lạc với chính mình và với mọi người.
Điều chúng ta cần nhất hiện nay là hòa bình, nói đúng hơn là an bình trong tâm hồn giữa những biến chuyển của thời cuộc. Chúa Giê-xu phán hứa với chúng ta rằng Ngài sẽ ban bình an đó cho chúng ta. Chúa Giê-xu phán, "Ta để sự bình an lại cho các ngươi; ta ban sự bình an ta cho các ngươi; ta cho các ngươi sự bình an chẳng phải như thế gian cho. Lòng các ngươi chớ bối rối và đừng sợ hãi" (Phúc Âm Giăng 14:27). Bình an thật đến từ Thiên Chúa và chúng ta chỉ có bình an thật khi chúng ta được giải hòa với Thiên Chúa. Con người vẫn tiếp tục ở trong tư thế thù địch với Thiên Chúa nếu không ăn năn, quay trở lại, nhận tội với Chúa để được Ngài thứ tha tội lỗi. Khi tội lỗi được tha thứ, chúng ta mới kinh nghiệm được bình an hay hòa bình với Ngài.
Có hai họa sĩ cùng vẽ bức tranh với chủ đề bình an. Họa sĩ thứ nhất vẽ cảnh một mặt hồ phẳng lặng, bầu trời trong xanh với đàn chim bay lượn. Họa sĩ thứ nhì thì vẽ một cảnh biển giông tố nhưng bên cạnh là một hốc đá kín đáo, trong hốc đá đó, một chú chim nhỏ đang hót vì được an toàn trong một hoàn cảnh đầy đe dọa. Đó là bình an thật.
Có ba điều quan trọng về bình an mà chúng tôi muốn thưa với quý vị hôm nay:
1. Bình an thật là bình trong tâm hồn không phải ngoại cảnh.
2. Chúa Giê-xu là sự bình an của chúng ta vì Ngài đã đến chịu chết thế vì tội lỗi của chúng ta để hòa giải chúng ta với Đức Chúa Trời.
3. Sở dĩ chúng tôi loan báo những điều nầy cho quý vị hôm nay là vì Lời Chúa dạy rằng "Chúa đã giao chức vụ giảng hòa cho chúng tôi."
Vâng, Chúa đã "phó đạo giảng hòa cho chúng tôi và chúng tôi làm chức khâm sai của Chúa Cứu Thế, cũng như Đức Chúa Trời bởi chúng tôi mà khuyên bảo. Chúng tôi nhân danh Chúa Cứu Thế mà nài xin anh em: hãy hòa thuận lại với Đức Chúa Trời" (Thư I Cổ-linh 5:18-20). Lý do duy nhất thúc đẩy chúng tôi loan báo tin mừng nầy là muốn thấy mọi người được hòa giải với Thiên Chúa và kinh nghiệm bình an của Ngài.
Người Trung Hoa hỏi thăm nhau đã dùng cơm chưa. Chúng ta hỏi thăm nhau có mạnh khỏe không. Người Do-thái khi gặp nhau cũng như khi từ giã đều nói shalom nghĩa là bình an. Đây cũng là tiếng chào mà những người con của Chúa thích chào nhau. Hôm nay chúng tôi cũng muốn gởi đến quý vị lời chào bình an tương tự. Bình an trong tâm hồn, bình an với Đức Chúa Trời qua Chúa Cứu Thế Giê-xu. Bình an đó sẽ canh giữ tâm hồn quý vị để chẳng những quý vị có thể sống một cuộc sống an lành nhưng cũng sống trong hài hòa và đem bình an thực sự đến cho mọi người. Quý vị muốn biết rõ hơn về bình an trong Chúa, xin liên lạc với chúng tôi theo địa chỉ sau:
Phát Thanh Tin Lành
2275 W Lincoln Ave
Anaheim CA 9801
(714) 533-2278

Thứ Ba, 11 tháng 6, 2013

2013 Câu chuyện còn dài NỢ XẤU CỦA VIỆT NAM !

VỀ NỢ XẤU CỦA VIỆT NAM





By: Wegreen
 
Thời gian gần đây, Nợ Xấu đang là một trong những vấn đề trọng điểm trong các cuộc họp bàn của Chính phủ cũng như trên các mặt báo của giới truyền thông. Nợ xấu gia tăng được coi là một trong những nguyên nhân cốt lõi dẫn đến sự đình đốn của nền kinh tế Việt Nam, khiến ngôi sao đang lên của Châu Á bị lao dốc tăng trưởng kinh tế xuống mức thấp nhất (5,03%) trong vòng 13 năm đầu của thế kỷ 21 [1], khiến hàng trăm nghìn doanh nghiệp trong nước phái đóng cửa trong hơn 2 năm vừa qua. Vậy đâu là những vấn đề cốt tử của câu chuyện nợ xấu đang đè nặng lên nền kinh tế Việt Nam này?

1. WHAT: NỢ XẤU VIỆT NAM CẤU THÀNH TỪ NHỮNG NGUỒN NÀO?

a. Bất động sản đóng băng:
Theo báo cáo của Bộ Xây dựng, riêng nợ liên quan bất động sản khoảng trên 1 triệu tỷ đồng. Trong đó, nợ xấu chưa được bóc tách nhưng chắc chắn không hề nhỏ. [2] Một thực tế là trong thời kỳ tăng trưởng nóng những năm 2007-2008 ở Việt Nam, quá nhiều doanh nghiệp lớn tham lam vay tiền đầu tư dàn trải ngoài lĩnh vực kinh doanh cốt lõi sang bất động sản và bị tắc dòng vốn ở đây không tài nào gỡ ra được khi nền kinh tế thế giới bị cảm nặng từ con virus khủng hoảng tài chính Mỹ và Châu Âu.

b. Sản xuất đình trệ đặc biệt từ khu vực DNNN
Tổng nợ xấu thương mại giữa các doanh nghiệp đến nay là bao nhiêu và liên quan đến nợ xấu của hệ thống ngân hàng thế nào, hiện không có cơ quan nào thống kê và đưa ra.

Chỉ tính riêng khối doanh nghiệp nhà nước (DNNN), theo báo cáo của Bộ Tài chính, tính đến cuối năm 2011, tổng nợ phải trả của các tập đoàn, tổng công ty nhà nước là 1.292.400 tỷ đồng, nhưng bao nhiêu trong số này là nợ xấu vẫn đang là ẩn số. [3]

Việc tăng trưởng kinh tế (GDP) cao và dựa vào kênh tăng vốn là chính, trong khi công nghệ hỗ trợ tăng trưởng và hiệu năng quản lý bị trượt dài phía sau, nảy sinh ra vấn đề doanh nghiệp càng vay nhiều càng khó có khả năng quản lý hiệu quả các đồng vốn vay đó, dẫn đến hệ số ICOR thấp, lãng phí đồng vốn và gia tăng nguy cơ tham nhũng khi đồng tiền như “mỡ để miệng mèo”.
c. Xây dựng cơ bản
Tình trạng nợ đọng xây dựng cơ bản tại các địa phương diễn ra khá phổ biến và ở mức độ khá nghiêm trọng. Nên nhớ rằng, đầu tư xây dựng cơ bản là một phần quan trọng của đầu tư công của Chính phủ trong nỗ lực phát triển cơ sở hạ tầng cho phát triển kinh tế đất nước.

Hậu quả là công trình thi công dở dang, kéo dài, hiệu quả đầu tư kém; chủ đầu tư không có nguồn vốn để thanh toán; nhiều doanh nghiệp xây dựng, nhà thầu nợ lương công nhân, chiếm dụng vốn của nhau, không ít doanh nghiệp giải thể và phá sản; góp phần làm cho nợ xấu của ngân hàng tăng lên... Điều đó đã và đang ảnh hưởng xấu đến an ninh tài chính, an toàn nợ công và tăng trưởng kinh tế bền vững. [4]
d. Thị trường chứng khoán bong bóng & trì trệ
Đây cũng là một yếu tố tác động không nhỏ khi thực tế không ít các công ty, đại gia, và các nhà đầu tư nhỏ lẻ cũng đã vay tiền không tiếc tay rồi đổ vào sòng bạc này và bị “đá đít” ra khỏi sân chơi đầu tư cổ phiếu với không một manh áo giữ lại sau giai đoạn thị trường chứng khoán bị lên đồng bởi tâm lý đám đông của các nhà đầu tư, hoang tưởng rằng bữa tiệc của thị trường giá lên sẽ không bao giờ tàn.

2. WHERE: ĐÂU LÀ NGUYÊN NHÂN THÚC ĐẨY SỰ GIA TĂNG NỢ XẤU?

Tất nhiên và đơn giản thường có 2 nhóm nguyên nhân chính:

a. Khách quan:
Khủng hoảng kinh tế thế giới lan rộng khiến các doanh nghiệp Việt Nam bị shock do mất mát vô số hợp đồng đã được ký. Vinashin là một điển hình khi các hợp đồng đóng tàu từ các khách hàng, đối tác nước ngoài bị hủy bỏ do sự suy thoái của ngành vận tải đường biển toàn cầu [5]. Xuất khẩu bị đình trệ, dẫn đến nhiều doanh nghiệp xuất khẩu cùng các doanh nghiệp ăn theo trôi tới bờ vực phá sản.

b. Chủ quan:
Một nền kinh tế đang rơi vào tình trạng ngủ mê. Các nhà đầu tư mơ về một thị trường chứng khoán - hàn thử biểu của nền kinh tế - chỉ có lên trong kể cả ngắn hạn và trung hạn. Các doanh nghiệp mơ trở thành điển hình phát triển thần kỳ và các doanh nhân mơ sớm tới ngày được bước chân vào cung điện của giới siêu giàu Việt Nam nơi những Đặng Nhật Vượng (Vincom), Đoàn Nguyên Đức (HAGL), Đỗ Quang Hiển (SHB), Đặng Lê Nguyên Vũ (Trung Nguyên)…đeo những vòng nguyệt quế bằng vàng ròng đang ngự trị. Các ngân hàng thì mơ giấc mơ lãi xuất ngày này tháng khác luôn ở mức 2 con số khiến tiền vào như nước và sẽ nhanh chóng trở thành những Bank of America, Cit Group, hay Well Fargo của Việt Nam. Chính phủ thì mơ Việt Nam sẽ chẳng mấy chốc sẽ vượt Thái Lan và tiệm cận Hàn Quốc (những quốc gia mà 50 năm trước đây chẳng hơn gì Việt Nam) nhờ tài năng điều hành phi thường của mình.

3. HOW MUCH: CON SỐ NỢ XẤU THỰC LÀ BAO NHIÊU?
Mới đây, tiến sĩ Nguyễn Đức Thành (VERP) nhận xét, nếu căn cứ vào tỷ lệ nợ xấu được Ngân hàng Nhà nước (NHNN) công bố là 6% vào tháng 2-2013 vừa qua, và các số liệu nợ xấu khác, thì nợ xấu của toàn hệ thống ngân hàng nằm trong khoảng 180 -300 ngàn tỉ đồng. [6]

Trong khi đó, theo báo cáo của Ngân hàng Nhà nước (NHNN), các khoản nợ xấu được các tổ chức tín dụng cơ cấu lại tính đến tháng 10-2012 cỡ 250.000 tỷ đồng, tương ứng 8% dư nợ tín dụng. Tuy nhiên, trao đổi với phóng viên báo Tiền Phong, TS. Trần Đình Thiên, Viện trưởng Viện Kinh tế Việt Nam cho biết, con số mới nhất mà ông được biết thì nợ xấu ngân hàng tới 400.000 tỷ đồng (~20 tỷ USD) [7]. Điều đó có nghĩa là nợ xấu của Việt Nam đang vào khoảng hơn 12% chứ không thực sự khoảng 6% như NHNN công bố.

4. WHEN: KHI NÀO THÌ NỢ XẤU GÂY PHÁ SẢN CÁC NGÂN HÀNG?

Có một minh họa rất đáng ngẫm rằng, nếu những ông chủ ngân hàng bỏ ra 5 đồng (gọi là vốn tự có), thu hút tiền gửi 95 đồng và họ cho vay 100 đồng thì như thế nếu nợ không đòi được là 6 đồng thì vốn tự có của các ông chủ ngân hàng coi như hơn mất sạch. Ở Việt Nam, hệ số vốn hiện nay chỉ khoảng 4-6% [8], và kết hợp với dự đoán của các chuyên gia kinh tế Việt Nam và NHNN bên trên rằng tỷ lệ nợ xấu khoảng 8-12% thì chắc chắn một tỷ lệ không thể nhỏ các NHTM đang rơi vào tình trạng vỡ nợ mà không dám công bố.

5. WHO: AI LÀ CHỦ NỢ LỚN CỦA VIỆT NAM?

Thêm một đòn knock out cho khu vực nợ công của Việt Nam là, nợ nước ngoài tính bằng nội tệ tăng với tốc độ chóng mặt, kích thích rủi ro tỷ giá. Các chủ nợ lớn của Chính phủ Việt Nam bao gồm Nhật (chiếm 34,3% tổng nợ) và các tổ chức quốc tế như Hiệp hội phát triển quốc tế IDA (International Development Association - 24,9%) và Ngân hàng phát triển châu Á ADB (Aisan Development Bank - 15,0%). Mỹ và khối EU chỉ chiếm lần lượt 0,3% và gần 6,9% tổng nợ của Chính phủ Việt Nam, tuy nhiên nợ theo đồng tiền của các nước/khu vực này lại chiếm tỉ trọng lớn. Các chủ nợ thường có xu hướng sử dụng những đồng tiền mạnh, và việc vay nợ theo các đồng tiền mạnh này khiến nợ nước ngoài chịu rủi ro cao khi chúng có xu hướng lên giá theo thời gian. [9]

Chỉ tính kể từ đầu năm 2010 đến cuối tháng 6/2011, ba đồng tiền chủ chốt gồm EUR, USD và JPY trong giỏ nợ nước ngoài của Việt Nam đã lên giá lần lượt khoảng 12%, 13% và 26% so với VND. Điều này cũng đồng nghĩa với việc gánh nặng nợ nước ngoài tính theo nội tệ đang tăng với tốc độ chóng mặt và gây sức ép đối với thâm hụt ngân sách và chính sách tiền tệ. [9]

6. HOW: ĐÂU LÀ NHỮNG GIẢI PHÁP CỐT LÕI GIẢI QUYẾT NỢ XẤU?

Nhiều cuộc họp bàn sôi nổi của các chuyên gia kinh tế và các Think Tank của Chính phủ đã được tiến hành xung quanh vấn đề nợ công và nợ xấu. Tựu chung lại, giải pháp vẫn nằm ở:

a. Tái cấu trúc nợ của các tập đoàn, tổng công ty Nhà Nước, từ những anh hút và xúc tài nguyên đang khan hiếm lên để hưởng lợi nhuận như Petrolimex và Vinacomin, tới những anh độc quyền bán ánh sáng điện cho 90 triệu dân Việt Nam như EVN hay bám biển đảo để làm giàu như Vinashin và Vinalines.
b. Ngân hàng Nhà Nước (NHNN) giảm lãi suất tái cấp vốn xuống để hỗ trợ các NHTM phục hồi. Các ngân hàng thương mại đồng thời cũng giảm lãi suất cho vay hay dãn nợ cho doanh nghiệp để cùng tồn tại. Hành lang giám sát bên vay để đảm bảo họ sử dụng vốn vay đúng quy ước cũng cần phải siết chặt.
c. Thành lập trung gian (Công ty Quản lý tài sản là một ví dụ) để giúp xóa nợ xấu cho các NHTM thông qua sự hỗ trợ tài chính của Chính phủ, qua đó cứu trợ khu vực ngân hàng trong cơn bể dâu.
d. Tìm kiếm sự viện trợ kỹ thuật và tài chính từ các Tổ chức quốc tế, cũng như vận động kiều hối, để bơm tiền vào nền kinh tế bong bóng đang bị xịt và có nguy cơ rơi vào vòng xoáy đình lạm (Stagflation) [10].


7. WHY: TẠI SAO CÔNG TY QUẢN TÀI SẢN (VAMC) KHÔNG PHẢI LÀ GIẢI PHÁP HIỆU QUẢ CHO ĐỐNG NỢ XẤU ĐANG GIA TĂNG?

Nghị định thành lập Công ty Quản tài sản (VAMC) vừa được Thủ tướng ký ban hành và có hiệu lực kể từ 9/7/2013. Theo đó, VAMC sẽ là công ty TNHH một thành viên do Nhà nước sở hữu 100%, với vốn điều lệ 500 tỷ đồng. VAMC ngoài quyền năng phát hành trái phiếu đặc biệt thời hạn tối đa 5 năm và lãi suất bằng 0% để hỗ trợ kéo các NHTM khỏi bờ vực phá sản còn có khả năng mua nợ xấu của tổ chức tín dụng theo giá trị thị trường bằng nguồn vốn không phải trái phiếu đặc biệt [11].

Tuy nhiên, có thể thấy kỳ vọng vào “nước thánh” của VAMC không thực sự nhiều khi xét tới quy mô không gian khổng lồ của nợ xấu. Liệu một công ty có quy mô 500 tỷ đồng có làm teo nhỏ đáng kế món nợ xấu gấp 500 tới 800 lần (250.000 – 400.000 tỷ) mà nền kinh tế Việt Nam đang phải gánh chịu? Hơn nữa, bối cảnh kinh tế Việt Nam đang đầy một màu xám khi nợ xấu đang nằm chính ở khu vực DNNN – khu vực kinh tế chủ đạo và có hệ số ICOR thấp nhất trong các khu vực kinh tế, các Doanh nghiệp tư nhân phá sản hàng loạt, thị trường chứng khoán – nơi hút tiền đầu tư quan trọng nhất – thì lạnh lẽo, và thị trường bất động sản – nơi hàng đống tiền của các “ông lớn” đang bị kẹt – thì đông cứng.

8. WHICH: VẬY YẾU TỐ NÀO THỰC SỰ LÀ GIẢI PHÁP GIÁ TRỊ HƠN CHO BÀI TOÁN NỢ XẤU?

Trong các tác nhân chính (NHNN, Công ty Quản lý tài sản – tay trung gian đòi nợ xấu, NHTM, Doanh nghiệp) tham gia vào bức tranh nợ xấu quốc gia, doanh nghiệp chính là nút thắt cổ chai mà nếu không cố giải pháp quyết triệt để cho khu vực này thì không cách nào thực sự giảm được nợ xấu. 

Nếu để doanh nghiệp phá sản hàng loạt (như đang diễn ra) thì họ xuống mồ để lại nguyên đống nợ xấu cho các NHTM mà không cách nào xóa được. Ngoài ra, đến lượt mình, để tránh bị phá sản do nợ xấu vượt quá hệ số vốn tự có, NHTM phải phụ thuộc vào “bầu sữa” cứu trợ thanh khoản từ NHNN. Song, nếu các doanh nghiệp bị chết hoặc sống như các Zombia thì họ không thể có lợi nhuận, và do đó Chính phủ sẽ không thu được thuế để bỏ vào két của NHNN mà qua đó NHNN có phao tiền tệ mang đi cứu trợ. 

Tuy nhiên, giả thiết màu hồng là NHNN có tiền thoải mái cho NHTM vay, NHTM có tiền thoải mái cho doanh nghiệp vay, và Công ty quản lý tài sản cùng NHTM cho phép doanh nghiệp dãn trả lãi và vốn vay thì thực tế rằng doanh nghiệp vẫn sẽ vô cùng khó khăn trong khâu tìm kiếm lợi nhuận để quay về thời thịnh vượng. Tại sao? Tại vì lợi nhuận phụ thuộc đầu ra sản phẩm có tiêu thụ được không. Và hiện tại, thị trường nội địa đang rơi vào giảm phát trầm trọng người dân phải tiết kiệm không dám tiêu dùng, trong khi các doanh nghiệp khách hàng của các doanh nghiệp khác cũng không còn tiền hoặc không dám vay để mua nguyên vật liệu sản xuất. Tệ không kém, cuộc khủng hoảng tài chính thế giới bắt nguồn từ Mỹ năm 2008 vẫn đang như đám mây vần vũ ngăn cản sự ấm lên của nền kinh tế thế giới, dẫn đến các doanh nghiệp Việt Nam không tài nào gia tăng năng lực xuất khẩu được.

Dù thế nào, có thể thấy Doanh nghiệp là tác nhân ảnh hưởng lớn tới vòng xoay của nợ xấu. Cởi trói cho các khu vực kinh tế, đặc biệt là khu vực kinh tế tư nhân, với những chính sách công bằng hơn cho khu vực năng động chiếm trên dưới 90% thị trường này là giải pháp không thể thiếu để cứu túi tiền của Chính phủ, cứu khu vực ngân hàng, và tái thiết niềm tin của thị trường cùng các nhà đầu tư trong và ngoài nước.

Quả là tiến thoái lưỡng nan và sẽ thật thần kỳ nếu Chính phủ của thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng có thể gỡ rối được mớ bòng bong đang quấn chặt lấy nền kinh tế Việt Nam. Chúc ông và các nhà lãnh đạo Việt Nam gặp nhiều may mắn.

2013 Tứ nhập nhi bất hoặc

10/06/2013

Thánh dạy: Vào tuổi bốn mươi không lầm lẫn nữa

(Tử viết: Tứ nhập nhi bất hoặc子曰:四什而不惑)
Trần Gia Ninh
Bốn thập kỷ hết đánh nhau,
Ngẫm mình lạc hậu mà đau đớn lòng!
Đã gần bốn thập kỷ trôi qua, kể từ 1975. Sau gần bốn thập kỷ ít đánh nhau, xã hội Việt Nam hiện nay phân thành hai nhóm lớn, nhóm U50+ (45 tuổi trở lên) và nhóm U45- (dưới 45 tuổi). Nhóm tuổi trẻ U45- là nhóm ít dính líu trực tiếp với quá khứ, dù cho lớn lên ở trong hay ngoài nước, đối với họ, thay đổi cái cũ lỗi thời để Việt Nam có một thể chế hội nhập, tiến bộ, hòa hợp dân tộc, là điều ít phải bàn cãi. Tuy nhiên, dẫn dắt gia đình và xã hôi, cả kinh tế và chính trị, cả đức tin và tâm linh, ân oán vay trả hiện tại và tương lai…lại thuộc nhóm U50+. Do những trái nghiệm cuộc sống, họ phải cân nhắc nhiều điều là tất yếu. Vì vậy, những điều được viết dưới đây, là những nhận xét không định kiến, với mong muốn cung cấp cho nhóm U50+, thuộc mọi phía, mọi nơi, một góc nhìn khoa học khách quan để tham khảo.
Việt Nam đang ở đâu trên bản đồ chính trị toàn cầu
Hãy xem ý kiến của người ngoài là các nhà khoa học thế giới (theo wikipedia) đánh giá về thể chế của Việt Nam.
-Phân loại theo hình thức hiến định (constitutional form), trong 181 quốc gia trên thế giới thì có 137 nước Cộng hòa (republic), 38 nước Quân chủ lập hiến (constitutional monarchy) 6 nước là Quân chủ chuyên chế (absolute monarchy). Việt Nam thuộc nhóm 137 nước Cộng hòa
-Xếp loại theo Nguồn gốc quyền lực (power source) thế giới phân ra bốn nhóm:
· Dân quyền (rule of the people – Democracy:Quyền lực là của dân, tức là Dân chủ),
· Quân quyền (monarchy – Quyền lực thuộc quân vương)
· Thần quyền (theocracy – Quyền lực thuộc thánh thần, do người (tự nhận) đại diện thánh thần thực thi)
· Chuyên quyền (authoritarianism)
-Toàn thế giới có 25 quốc gia Dân chủ đầy đủ (democracy), 53 nước Dân chủ khiếm khuyết (Flawed democracy). Trong danh sách 78 nước này không có tên Việt Nam.
-Việt Nam cũng không thuộc hai loại Quân quyền hoặc Thần quyền vì không có vua chính thức nắm quyền và không có giáo chủ của tôn giáo nào chi phối quyền lực.
-Các học giả quốc tế thống nhất xếp Việt Nam vào nhóm Chuyên quyền nhưng không nhất trí được là thuộc dạng nào của chuyên quyền. Trong nhóm chuyên quyền theo lý thuyết có bốn kiểu, là Thể chế độc tài (dictatorship), Chuyên chế độc đoán(Autocracy) Chuyên chế (authoritarian rule), Toàn trị (totalitarian rule). Các học giả loay hoay xếp Việt Nam hoặc thuộc dạng Chuyên chế (authoritarian rule) hoặc thuộc kiểu Toàn trị (totalitarian rule). Toàn trị là một hệ thống chính trị mà nhà nước nắm toàn quyền cai trị toàn xã hội và khi cần thiết thì tìm mọi cách khống chế mọi măt đời sống công cộng và riêng tư (Totalitarian rule is apolitical system in which the state holds total authority over the society and seeks to control all aspects of public and private life whenever necessary ). Như vậy thì việc xếp Việt Nam vào kiểu Toàn trị là phù hợp định nghĩa. Tuy nhiên sự thật chưa hẳn là như thế, vì chế độ Toàn trị (như Liên xô trước đây) có đặc trưng là mức tham nhũng thấp, uy tín (charisma) chính quyền là cao. Trong khi đó Việt Nam lại tham nhũng cao, uy tín chính quyền thấp. Vì vậy họ xếp Việt Nam vào một nhóm riêng gọi là Chuyên chế toàn trị độc đảng (Single Party). Cùng nhóm này có Trung Quốc, Cuba, Lào, Triều Tiên, Eritrea, Sahrawi,Turkmenistan. Lưu ý là hơn 20 năm trước, thế giới có đến hơn 80 nhà nước là độc đảng hoặc thực chất là độc đảng. Nay hầu hết đã từ bỏ, chỉ còn lại 7 nước nói trên là vẫn kiên trì!
Không bàn chuyện xấu tốt, chỉ cần nhìn trên bản đồ chính trị toàn cầu mà các học giả thế giới đã vẽ ra, thì thấy hiện lên một cách rõ ràng sự lạc lõng, phản tiến hóa của thể chế chính trị của Việt Nam. Tất nhiên Việt Nam phải phản bác cách phân loại này. Vậy hãy xem Việt Nam, bằng văn bản và bằng hành động, tự nhìn nhận mình như thế nào.
Bản chất của chế độ chính trị và Nhà nước Việt Nam hiện tại
Tại Hội nghị Trung ương 7 ngày 3-5-2013, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng yêu cầu “kiên trì những vấn đề có tính nguyên tắc, thuộc về bản chất của chế độ chính trị và Nhà nước ta”.
Một cách chính thức, cho đến 1975 theo Hiến pháp, nhà nước Việt Nam được hiến định là thể chế dân chủ cộng hòa. Từ Hiến pháp 1980, chính thức Việt Nam công khai tự nhận là nhà nước chuyên chế, ghi tại điều 2: Nhà nước CHxã hội chủ nghĩaViệt Nam là nhà nướcChuyên chính vô sản (proletarian dictatorship) đồng thời là Độc đảng, ghi tại điều 4. Sau sự sụp đổ phe xã hội chủ nghĩa thế giới, Hiến pháp Việt Nam 1992 vẫn giữ nguyên điều 4 và tuy không công khai ghi nhận thể chế là nhà nước chuyên chính nữa nhưng cũng không quay lại thể chế dân chủ, mà chọn cách bỏ trống không định danh nữa. Khi bổ sung vào năm 2000 và trong dự thảo sửa đổi 2013, ghi nhận thể chế chính trị của nhà nước Việt Nam là Pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Về khoa học, đó là một thể chế chính trị chưa hề được xác định, chưa có tiền lệ trên thế giới. Theo thừa nhận của Đảng Cộng sản Việt Nam, nơi sáng tạo ra khái niệm này, Nhà nước Pháp quyền xã hội chủ nghĩa chính là Nhà nước chuyên chính vô sản (“Tài liệu bồi dưỡng thi nâng ngạch chuyên viên chính khối Đảng, đoàn thể năm 2012”). Như vậy, bản chất của thể chế nhà nước Việt Nam, do chính bản thân đảng và nhà nước Việt Nam thừa nhận, đúng là Thể chế Chuyên chế Độc đảng, như sự phân loại của thế giới.
Trên thực tế, thì thể chế chính trị của Việt Nam hiện nay còn pha trộn thêm đặc điểm của Thần quyền. Tuy không lấy giáo lý thần linh (như Kinh Thánh, Kinh Quran, …) làm chỗ dựa, nhưng lại sử dụng giáo lý của học thuyết Marx-Lenin còn hơn kinh thánh, không được xa rời, dù chỉ một ly. Nên nhớ rằng, ngay cả Trung Quốc, thì học thuyết Marx-Lenin cũng không được khẳng định là giáo lý. Họ lấy thuyết xã hội chủ nghĩa mang màu sắc Trung Hoa làm nền tảng, và thực thi chủ nghĩa thực dụng “mèo trắng, mèo đen”. Đảng Cộng sản Việt Nam tự nhận và buộc toàn dân chấp nhận vai trò lãnh đạo của đảng như một mặc khải thần quyền, và trên thực tế cấp ủy đảng, được đặt ở mọi cấp, thực thi chức năng không khác gì vai trò của chủ chăn tôn giáo. Trong thể chế thần quyền, giáo chủ đóng vai trò lãnh tụ tinh thần, với quyền khống chế, can thiệp tuyệt đối nhưng không chịu trách nhiệm cụ thể.
Đảng Cộng sản Việt Nam không xác nhận vai trò là đảng cầm quyền, đồng nghĩa với không chịu trách nhiệm thành bại của điều hành (dù di chúc của lãnh tụ quá cố của Đảng, Hồ Chí Minh, đã xác định rõ ràng, nhưng không được các văn kiện đảng chính thức ghi nhận). Đảng tự thiết lập cho mình vai trò lãnh đạo, quyết định và khống chế tất cả nhưng không chịu trách nhiệm cụ thể, giống như thần quyền vậy.
Thể chế của Việt Nam cũng pha trộn đặc điểm của chế độ quân quyền, như có vị nguyên Chủ tịch Quốc hội đã nhận xét, với một vua tập thể, là mười mấy vị trong Bộ Chính trị.
Tóm lại, ở mọi góc nhìn, hoặc do nhà nước Việt Nam và Đảng Cộng sản Việt Nam tự xác nhận, công khai hoặc che đậy, hoặc là từ phân loại của thế giới, và sự nhìn nhận trên thực tế, thể chế của nhà nước Việt Nam hiện nay là một nhà nước chuyên chế toàn trị độc đảng pha lẫn thần quyền và quân quyền. Đó phải chăng là cái mà dân tộc này phải khẳng định và kiên trì.
Thể chế chính trị và sự phát triển của dân tộc
All's Well That Ends Well (W. Shakespeare), Ende gut, alles gut (tục ngữ Đức): Kết cục tốt thì tất cả là tốt! Thể chế chính trị nào kết cục mà mang lại phồn vinh, hạnh phúc thì đều tốt. Trong lịch sử phát triển, chế độ chuyên chế, toàn trị cũng không phải là hoàn toàn tiêu cực. Thể chế này có ưu điểm là trong một giai đoạn cần thiết, với sự cưỡng bức theo mục tiêu chấn hưng dân tộc và nếu có sự cai trị thông minh, hết lòng vì nước, vì dân, dù biện pháp có tàn bạo, cũng có thể đưa một dân tộc từ yếu hèn lạc hậu nhanh chóng phát triển thành một dân tộc phồn vinh, hùng mạnh. Những thí dụ như vậy khá nhiều, ví dụ như Liên Xô thời 1924-1940, Đài Loan thời Quốc dân đảng 1948-1987. Một thí dụ khác là Hàn Quốc 1960-1990 mà các nhà lãnh đạo Việt Nam lấy làm gương để biện minh. Hàn Quốc rất tương đồng với Việt Nam, là một nước thuộc địa đến 1945, sau đó trải qua chiến tranh tàn phá đến năm 1954 mới yên. Nếu nhìn lại giai đoạn 30 năm 1960-1990 của Hàn Quốc thì rất giống với Việt Nam giai đoạn 1981-2010: cũng sau chiến tranh tàn phá 6 năm, cũng có sự nghèo khó như nhau (GDP Hàn Quốc 1960 là 155 US$, Việt Nam năm 1981 là 251$ ), cũng có một thể chế chính trị chuyên chế độc tài, phản dân chủ. Tình trạng phát triển của hai nước sau 30 năm như thế nào, xin mời xem biểu đồ dưới đây, lập theo số liệu từ Nguồn: WB, IMF:
clip_image002
Sau 30 năm, với mức tăng GDP 34 lần, Hàn Quốc trở thành cường quốc, dù sau đó họ chuyển sang thể chế dân chủ theo quy luật tất yếu, nhưng công lao của thế hệ chuyên quyền vì sự chấn hưng của dân tộc Hàn, như Pak Chung Hee vẫn được ghi nhận. Bằng chứng là con gái của nhà độc tài sau hơn 30 năm lại được dân chúng bầu làm tổng thống. Cũng 30 năm chuyên chế, cũng hòa bình xây dựng, cũng cùng mức xuất phát, nhưng Đảng Cộng sản Việt Nam chỉ đưa đất nước tăng trưởng được 4, 25 lần, bằng 1/8 của Hàn Quốc. Quốc gia Việt Nam vẫn nghèo nàn lạc hậu. Dù luôn luôn lớn tiếng sự tăng trưởng là thành tích lớn của lãnh đạo Việt Nam, là ưu việt của chế độ, nhưng con số so sánh nói trên là bằng chứng không cần bình luận, đâu là sự thật. Chỉ có thể có một kết luận: Trong bốn thập kỷ vừa qua, để bảo vệ cái ghế quyền lực giành được và để củng cố, mở rộng những lợi ích béo bở của mình, giới cầm quyền đã và đang quay lưng lại với nhân dân. Với một mục đích như thế thì bộ máy toàn trị đó không thể là nơi tập hợp tinh hoa của đất nước để tạo nên bước nhảy thần kỳ, như thường được tuyên truyền. Dân tộc Việt Nam đã bị nhầm lẫn, phải trả cái giá quá cao để đổi lấy một thảm hoạ cho sự chấn hưng thất bại.
Người ta cũng thường biện minh rằng, dân chủ, đa nguyên, đa đảng làm cho xã hội mất ổn định, ảnh hưởng đến phát triển kinh tế xã hội, lấy thí dụ điển hình như nước láng giềng Thái Lan, nước được thế giới xếp vào loại dân chủ còn khiếm khuyết. Đó là lý do mà lãnh đạo Đảng Cộng sản Việt Nam viện dẫn để Việt Nam phải kiên trì những vấn đề có tính nguyên tắc, thuộc về bản chất của chế độ chính trị và Nhà nước ta,… Muốn nhìn nhận vấn đề này một cách khách quan, hãy so sánh sự phát triển của Việt Nam và Thái Lan trong hơn 30 năm vừa qua (1980-2012):
clip_image004
Xuất phát điểm 1980 Việt Nam chỉ kém Thái Lan rất ít, 74% tức xấp xỉ 3/4 Thái Lan thôi, nhưng đến nay, năm 2012 Việt Nam chỉ còn bằng 26, 8 % tức xấp xỉ ¼ Thái Lan. Thể chế nào ưu việt hơn cho sự phồn vinh của dân tộc quả thật không cần bàn cãi. Trường hợp Thái Lan và Việt Nam là một chứng minh, cùng một trình độ tầm thường như nhau của giới cầm quyền thì thể chế dân chủ đã chiến thắng thể chế chuyên chế toàn trị độc đảng.
Khi Đảng Cộng sản Việt Nam tự hào tuyên bố năm 2020 Việt Nam sẽ là một nước công nghiệp, thì thực trạng sẽ như thế nào? Năm 2012 GDP Việt Nam là 1373$, bằng Thái Lan năm 1981-82, tụt hậu 30-31 năm. Còn năm 2019 IMF dự đoán GDP Việt Nam 2473$ bằng Thái Lan năm 1985, tụt hậu 34 năm. Khoảng cách thụt lùi so với Thái Lan không những không giảm mà còn bị nới rộng ra. Vậy thì có còn hy vọng phép màu nào cho thể chế ưu việt này để đuổi theo hàng xóm, nói chi đến chuyện biến Việt Nam thành rồng.
Ai đó cho rằng, so sánh với nước ngoài chỉ để làm rối lòng dân, gây cản trở cho ổn định, vì sự thật không thể phủ nhận là người dân Việt Nam ta hôm nay ăn no, mặc ấm hơn hôm qua nhiều, còn muốn đòi hỏi gì nữa đây! Đã gần bốn thập kỷ kể từ mốc 1975. Thử nhìn lại các chu kỳ 40 năm đã xảy ra ở nước ta. Thực dân Pháp chỉ có 40 năm là thời gian 1900-1940 tương đối yên ổn để xây dựng và bóc lột nước ta. Bảy mươi lăm năm sau, bốn thập kỷ 1975-2013 cũng là thời gian Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam tương đối yên ổn xây dựng đất nước. Trong bốn thập kỷ thực dân Pháp đã dùng một phần của cải của Việt Nam (còn phần lớn bị bóc lột mang đi) cùng với 95% dân Việt Nam mù chữ để xây dựng hệ thống đường sắt, đường bộ, cảng biển, sân bay… đã xây dựng Hà Nội, Sài Gòn đẹp nổi tiếng nhất Á châu… Bây giờ, với trình độ khoa học công nghệ gấp trăm lần so với 75 năm trước và với 95% dân biết chữ, cũng với bốn thập kỷ yên ổn, Việt Nam đã hoàn thành việc nông thôn hóa Hà Nội, Sài Gòn. Hệ thống đường sắt còn kém hơn thời Pháp. Hệ thống đường bộ, cảng biển cải tiến chắp vá, không xây nổi một đường cao tốc Bắc –Nam là điều tối thiểu cho hạ tầng bất kỳ quốc gia nào. Việt Nam tự hào từ thiếu đói triền miên, năm 1990 đã trở thành nước xuất khẩu gạo lớn của thế giới. Nhưng trước 1945 Nam Kỳ vốn là địa phương xuất khẩu gạo lớn rồi. Người Việt Nam sướng hơn trước thực ra là sự phục hồi đương nhiên của mọi dân tộc có sức sống, không phụ thuộc vào lãnh đạo, chưa kể dân Việt Nam đã bị dìm xuống đáy trước đó do lãnh đạo sai lầm.
Nhìn ra xung quanh thì thua kém xa thiên hạ. Đóng cửa tự khen cũng không thuyết phục. Đấy chỉ là mấy thí dụ đong đếm được, chưa bàn đến chuyện cao siêu như sự xuống cấp của đạo đức, sự tụt hậu về trí tuệ, sự tan rã của văn hóa xã hội, sự chia rẽ, hận thù ân oán vay trả trong lòng dân tộc. Tham nhũng tràn lan, dân mất lòng tin vào chính quyền, xã hội mất động lực phát triển. Nhà nước nhìn vào dân mà chỉ thấy kẻ thù. Tự cổ chí kim, đó là mầm họa của diệt vong, chẳng là chuyện đau lòng lắm chăng!
Bốn thập kỷ hết đánh nhau
Thay đổi hay chết! Tính sao bây giờ
Đối với một dân tộc, nếu sự thụt lùi ngày càng mở rộng, thì trong cái thế giới phẳng này, điều đó có nghĩa là sự diệt vong ngày càng gần lại. Chỉ có thay đổi mới tránh được họa diệt vong. Nhưng nói đến thay đổi, đặc biệt là thay đổi thể chế chính trị, thì nhiều người lớp U50+ hoặc là ngại ngần, sợ hãi (nhất là U50+ trong chính giới), hoặc là đả phá cực đoan, nuối tiếc vô vọng về quá khứ trước 75 cả hai phía. Một số lớn U50+khác thì an phận chịu đựng. Vì sự kìm kẹp tự nhiên bởi lớp U50+, lớp trẻ U45- cũng bị thui chột luôn.
Luận bàn về Thay đổi
Với người Việt, Kinh Dịch 易經 và tin quẻ bói Dịch dường như là sự chấp nhận đượm màu huyền bí, không phải bàn cãi (thậm chí còn có người cho rằng, Kinh Dịch là của người Việt, dân Hoa Hạ học lại!). Tuy vậy, ít người Việt để ý rằng Kinh Dịch chính là môn triết học cổ đại Đông phương về sự thay đổi. Phương Tây thì diễn đạt rõ ràng hơn, khi chuyển ngữ sang Tiếng Anh, họ gọi Kinh Dịch là Book of Change  Kinh sách về sự thay đổi. Luận ngữ 論語 thiên Thuật nhi 述而 ghi lời Khổng tử: Ngũ thập dĩ học Dịch, khả dĩ vô đại quá hĩ 五十以學易可以無大過矣 tạm dịch: Năm mươi tuổi học Kinh Dịch thì có thể không lầm lỗi lớn. Nói theo ngôn ngữ bây giờ, đó là để không đánh mất cơ hội phát triển, không bị sự thay đổi tất yếu nhấn chìm. Đến những tư tưởng cũ kỹ của một xã hội phong kiến trì trệ như vậy mà còn coi thay đổi là quy luật khách quan, thì trong một thế giới hiện đại năng động, khoa học công nghệ phát triển như vũ bão, tất nhiên là phải đặt lên hàng đầu. Chẳng thế mà khẩu hiệu tranh cử của Obama là “Change, Yes We Can” (Thay đổi, Chúng ta có thể làm được!”). Thay đổi là khẩu hiệu, là lẽ đời, từ Đông sang Tây, từ Nam xuống Bắc. Cái gì không cần thiết, không hợp nữa, không có lợi… thì cần thay đổi. Có thay đổi mới tồn tại và phát triển đươc. Với lẽ đời như vậy, nếu lấy sự khẳng định và kiên trì làm phương sách, đại loại như“kiên trì những vấn đề có tính nguyên tắc, thuộc về bản chất của chế độ chính trị và Nhà nước ta, tiếp tục khẳng định Nhà nước ta là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo” (Nguyễn Phú Trọng tại Hội nghị Trung ương 7, ngày 3-5-2013), thì cuối cùng dân tộc này sẽ đi đến đâu?
Với đời người con số 40 là đã qua hết giai đoạn “tam thập nhi lập三什而立 ”, đã lập thân xong, không còn phải dựa vào danh vị hay tài sản của cha mẹ nữa và bước sang giai đoạn “tứ thập nhi bất hoặc 四什而不惑 “, không (được) lầm lẫn nữa. Vậy mà Đảng và nhà nước Việt Nam sau 40 năm hết đánh nhau, tự nhận “được nhân dân giao phó”, nhưng lại thất bại trong sứ mệnh phục hưng dân tộc (như đã nói ở trên), nay vẫn chỉ có cách viện dẫn vào hào quang của tiền bối trước 1975 để giữ quyền cai trị đất nước, với kiên trì  khẳng địnhthì có nhân dân nào lại tin tưởng “giao phó” nữa. Liệu nhân dân với kinh nghiệm bốn thập kỷ “tin tưởng giao phó” có còn lầm lẫn được không? U50+ hãy trả lời!
Bốn thập kỷ cũng là con số thống kê trung bình về số phận của các thể chế chuyên chế. Vì về bản chất, thể chế chuyên chế dựa vào áp đặt, bạo lực, là mảnh đất để thù hận, ân oán… nảy nở. Đó là một hệ thống cai trị chứa đựng mâu thuẫn đối nghịch, địch ta, cho nên sớm hay muộn, theo quy luật cũng bị hủy hoại do tự thân hoặc ngoại lai. Khác với các thể chế dựa trên sự đồng thuận có thể tự hoàn thiện để phát triển lâu dài, thể chế chuyên chế hùng mạnh như Nhà nước Xô Viết cũng phải tan rã. Do có chiến tranh thế giơi II cắt đôi nên Liên Xô tồn tại ổn định được hơn 70 năm (1917-87). Thực ra nếu tính sau chiến tranh đến khi bắt đầu sụp đổ (1945-1987) cũng chỉ 42 năm. Tất cả thể chế xã hội chủ nghĩa Đông Âu cũng trên dưới 40 năm. Hàn Quốc, Đài Loan cũng không quá 40 năm, Gaddafi-Lybia 42 năm, Franko-Tây Ban Nha cũng 41 năm. Các nhà độc tài khác (Mubarak, Suharto, Hitler…) cũng dưới 40 năm. Trung Quốc thành lập 1949 đến khi mâu thuẫn cực độ, Mao phải phát động Cách mạng Văn hóa (1967-1978) để xóa đi làm lại. Cho nên người ta lấy mốc 1979 lúc làm lại, để dự đoán sự thay đổi thực sự của Trung Cộng sẽ xẩy ra từ 2019 trở đi theo quy luật 40 tức 1979-2019.
Luận bàn về tuổi 40 không phải chuyện tào lao, vô căn cứ. Theo khoa học về tổ chức xã hội, bốn thập kỷ là thời gian trung bình chín muồi của ít nhất ba thế hệ hành động, là thời gian đủ cho các giá trị đương thời theo quy luật là tách rời khỏi ảnh hưởng của giá trị ban đầu 40 năm trước. Cho nên thay đổi là đương nhiên theo lẽ trời. Dân gian cũng có câu: “ai giàu ba họ, ai khó ba đời”, chính là tổng kết kinh nghiệm của luận điểm khoa học đó. Thực tế nhân loại đã chứng minh như vây, cho nên Việt Nam cũng không mong chống lại được quy luật đâu. Thay đổi lúc sắp vào tuổi 40 lúc này là tất yếu, chỉ có điều là phải thông minh, khách quan để làm chủ sự thay đổi đó mà thôi.
Thay đổi: Cách mạng hay Cải biến
· Cách mạng (revolution) là một sự thay đổi nền tảng của một cấu trúc quyền lực hoặc tổ chức, xảy ra trong một thời gian ngắn, thường kèm theo cưỡng chế bạo lực.
· Cải biến (evolution) là tên gọi mà môn xã hội học mượn từ khoa học tự nhiên, vốn có nghĩa ban đầu là tiến hóa. Đó là một sự thay đổi thích nghi dần từng bước, trong một thời gian dài.
· Thoạt nhìn, ai cũng cho rằng cần phải thay đổi theo kiểu cách mạng mới cứu vãn được tình hình Việt Nam hiện nay. Tuy nhiên những ý kiến chần chừ cũng không phải vô lý. Vì Việt Nam từ 1858-1975 đã bị xâu xé nội bộ và ngoại xâm hơn 100 năm nên ai cũng sợ bạo lực, sợ một cuôc đánh nhau tái diễn. Đến tận lúc này mà ân oán trong lòng dân tộc vẫn chưa được hóa giải, nếu tiếp tục cách mạng dựng lên, lật xuống thì ân ân, oán oán bao giờ mới dứt. Hơn nữa, vì vị thế địa chính trị, kinh tế, và đặc điểm dân tộc, Việt Nam là miếng mồi không thể nhả của đại cường Trung Hoa. Không cách mạng cũng chết mà cách mạng cũng chết vào tay Trung Hoa, nhanh hay chậm mà thôi.
· Với một thể chế chuyên chế toàn trị độc đảng, thì theo quy luật khoa học khả năng tự hoàn thiện là không thể. Hơn nữa thời gian cũng không cho phép chờ đợi. Điều đó có nghĩa là giải pháp evolution-cải biến chắc chắn không mang lại hiệu quả. Thậm chí, như quá trình “đổi mới” đã chứng tỏ, chỉ mở cửa kinh tế ít nhiều để thích nghi và giữ nguyên chuyên chế toàn trị thì mặt trái của kinh tế thị trường ập vào, được cơ chế chuyên chế bảo kê, ngôn luận bị bóp nghẹt, nên tham nhũng lớn mạnh vì không có địch thủ tự nhiên nữa. Xã hội tan nát, chính quyền tan rã, văn hóa giáo dục lao dốc. Thật là một thảm họa. Và tử thần phương Bắc chỉ còn chờ để rỉa xác nữa mà thôi.
· Thành công vĩ đại nhất của loài người hiện nay chính là sự phát triển vượt bậc của khoa học công nghệ. Khoa Chính trị học có thể học ở khoa học công nghệ một nguyên tắc thay đổi, gọi là revolutionary evolution – cải biến mang tính cách mạng, đã làm thay đổi toàn diện khoa học công nghệ ngày nay. Đó là nhìn hệ thống chính trị-xã hội như một hệ phức hợp đa thành phần (multi-component complex system). Trước hết là phân tích vị trí và tác động từng thành phần trong tổng thể. Thay đổi từng thành phần bằng phương thức cách mạng nhưng theo lập trình định sẵn, sao cho có tác động lớn nhất lên toàn hệ thống, nhưng lại gây tổn thương ít nhất cho các thành phần khác và không làm đổ vỡ tổng thể. Tóm lại một câu: Phương thức cải biến có tính cách mạng là cuộc cách mạng từng thành phần theo lập trình để tạo nên sự cách mạng tự thân ổn định, không bạo lực trên tổng thể.
Đoán một quẻ Dịch cho Việt Nam: Cải biến mang tính cách mạng
1. Đã đến thời điểm thể chế không thay đổi không được. Kiên trì giữ nguyên thì kinh tế lạc hậu, tham quan lộng hành, lòng dân không yên, trong lúc giặc phương Bắc nhòm ngó. “胡元澄: 臣不怕戰,但怕民心之從違耳 Hồ Nguyên Trừng: Thần không ngại đánh, chỉ sợ lòng dân không theo mà thôi. (cảnh báo trước khi mất nước, 1405, đời nhà Hồ). Đến lúc đó thì Đảng cũng mất, dân tộc cũng diệt vong vì Trung Hoa ngày nay đã chờ cơ hội đồng hóa nhóm dân Bách Việt cuối cùng là Việt Nam quá lâu rồi.
2. Trong giới cầm quyền và liên quan, đa số cũng hiểu biết, cũng ít nhiều có lòng với dân với nước, nhưng do sợ liên lụy sai lầm quá khứ, sợ bị trả thù, sợ mất quyền lợi
3. Xã hội Việt Nam hơn 120 năm, từ 1858 đến 1975/85, liên miên chiến tranh, đảo lộn. Tính cách hằn thù thiển cận của người Việt và kinh nghiệm đã qua tạo ra nỗi sợ hãi cho nhiều người dân về ân oán vay trả, nếu có một sự đảo lộn, đấu đá bạo lực nữa.
4. Sự kiện 1975 đúng ra phải là mang lại bình yên nhưng sai lầm liên miên những năm sau đó đã chia rẽ dân tộc: Chia rẽ giữa kẻ thắng người thua, giữa kẻ thắng với kẻ thắng, người thua với người thua. Đến nay dân tộc vẫn không nhìn về một hướng.
Cuộc cải biến có tính cách mạng phải lập trình sao cho giải quyết triệt để, yên ổn bốn yếu tố đó, theo thứ tự từ dưới lên trên thì sẽ cải biến cách mạng được hệ thống tổng thể.
Luận giải quẻ Dịch cho Việt Nam trên cơ sở khoa học thì thấy có thể hóa giải nếu biết những việc chắc chắn sẽ xảy ra, chủ động thì hay, thụ động thì dở, sớm thì tốt, chậm thì xấu:
a) Hành động pháp lý để Chấn hưng Dân tộc: Ngay lập tức, với danh nghĩa toàn dân hãy xây dựng một “ Hiến chương Chấn hưng Đất nước”, thông qua Trưng cầu Dân ý (Referendum) hoặc Hội nghị Diên Hồng. Nội dung ngắn gọn có ba nguyên lý. Một là chọn các tiên đề xã hội trong Tuyên ngôn Độc lập Mỹ và Tuyên ngôn nhân quyền và Dân quyền Pháp thể hiện tại Tuyên ngôn Độc lập 1945 Việt Nam làm cơ sở xây dựng nhà nước Việt Nam. Hai là kể từ ngày ra Hiến chương này, tất cả những gì xảy ra trước đó là thuộc về lịch sử, không được hồi tố, trừ tội phạm hình sự. Ba là Hiến chương này không được thay đổi, chỉ được bổ sung những điều không trái với những điều đã ghi lần đầu. Hiến chương này thông qua thì các yếu tố 2, 3, 4 đã được giải quyết về pháp lý.
b) Động tác vì hòa hợp và tôn trọng xã hội: Cũng nên nhắc chuyện Liên Xô, sau khi sụp đổ, Leningrad dù đã có lịch sử hơn 70 năm oai hùng, cũng đã trở về tên lịch sử là St. Peterburg. Cho nên, bây giờ Việt Nam nên theo đạo đời, trả lại tên cho Sài Gòn. Thay vào đó là mở rộng thành Vinh thành ra một thành phố độc lập, bao gồm cả bốn huyện Nghi Xuân, Nghi Lộc, Hưng Nguyên, Nam Đàn và đổi tên thành TP Hồ Chí Minh, quê hương của Hồ Chí Minh. Sài Gòn nên góp tay cùng dân Nghệ Tĩnh xây dựng một TP Hồ Chí Minh bền vững và hợp lòng người hơn. Tỉnh Nghệ An như vậy cũng thu gọn lại hợp lý hơn và nên chuyển thủ phủ ra Cầu Giát. Chuyện này trước sau gì cũng xảy ra. Biết trước mà chủ động thực hiện bao giờ cũng có lợi hơn cho dân tộc.
c) Việc làm theo đạo lý tâm linh: Nhìn vào lịch sử cổ kim, tất cả các nền văn minh nào có tục tôn thờ xác ướp, như Ai Cập, Inca, Liên Xô… cũng đều biến mất dạng trong lịch sử. Việt Nam không có tục lệ đó nay nên cần tránh xa. Du nhập một phong tục thờ người quá cố trái với truyền thống, trái với ý nguyện người đã khuất là phạm vào điều cấm kỵ của tâm linh. Vì vậy nên tôn trọng ý nguyện của Hồ Chí Minh để an táng thi hài như di chúc. Làm đúng nguyện vọng người đã khuất là tôn trọng “nghĩa tử là nghĩa tận” để vong linh người đã khuất được siêu thoát tạo phúc lành, giúp chấn hưng dân tộc.
d) Thể hiện trách nhiệm đồng hành cùng dân tộc: Đảng Cộng sản Việt Nam đã từng có những thành tích được lịch sử ghi nhận. Cái gì thuộc về lịch sử thì nên lưu giữ cho lịch sử, đừng để hậu thế làm sứt mẻ. Hiện nay, như bất kỳ tổ chức lớn nào, ba triệu đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam có nhiều khuynh hướng khác nhau, và tất là có mâu thuẫn phát sinh. Nếu không lường trước để giải quyết thì có thể sẽ lặp lại những sự kiện lịch sử đã xảy ra năm 1956 ở Hungary và 1968 ở Tiệp Khắc. Vin vào yêu cầu “ngầm” của một nhóm lãnh đạo Đảng Cộng sản, Liên Xô đã đưa quân vào Budapest, Praha bắt các lãnh tụ cải cách, áp đặt sự thống trị chuyên chế. Nếu một việc tương tự như vậy xảy ra với Việt Nam thì quân Trung Quốc sẽ lập tức khống chế toàn bộ Việt Nam, dân tộc Việt Nam sẽ bị đồng hóa do bản chất của Đại Hán là như vậy, không phải như Liên Xô đối với Hungary, Tiệp Khắc đâu. Vì vậy, Đảng Cộng sản cần tự nguyện tách thành hai đảng, cùng với mục tiêu chấn hưng dân tộc, nhưng chỉ khác nhau về phương thức, để các đảng viên tự nguyện chọn lựa thuộc nhóm nào. Sự chọn lựa tự nguyện vừa giải quyết được mâu thuẫn, ngăn chặn sự xâm lăng của Trung Quốc, tránh trở thành tội đồ của dân tộc, vừa hợp đạo lý phát triển văn minh. Vả lại việc chia tách này cũng đã có tiền lệ tốt đẹp là phong trào Cộng sản quốc tế tách thành Quốc tế Cộng sản đệ nhị và đệ tam. Hệ thống các đảng và nhà nước xã hội dân chủ châu Âu hiện nay là di sản quý báu của sự chia tách đó.
e) Hoàn thiện nền tảng chấn hưng đất nước: Đến lúc bốn điểm a, b, c, d hoàn thành thì bước vào bầu cử Quốc hội Lập hiến, chỉ có nhiệm vụ soạn thảo hiến pháp mới, sau khi quốc dân thông qua thì giải tán và bầu cử Quốc hội Lập pháp. Mọi chuyện đang tranh cãi như tên nước, quốc kỳ, chính phủ, tòa án, đảng phái, quân đội, công an… chỉ còn là chuyện của kỹ thuật lập hiến, lập pháp, dễ dàng giải quyết trên nguyên tắc đồng thuận, dân chủ.
Năm việc làm trên đây đều thuận lẽ trời, hợp đạo đời, không khó thực hiện trên thực tế, chỉ khó thực hiện trong đầu óc của lớp U50+. Vì mong để lại phúc cho con cháu chúng ta, hãy gạt bỏ mọi toan tính, hằn thù, vay trả mà thay đổi!
5/2013
T. G. N.
Tác giả gửi trực tiếp cho BVN.