Thứ Bảy, 14 tháng 7, 2012

2011 Nhìn lại VN ...> 30 năm

2012: Sau 37 năm thống nhất đất nước dưới sự lãnh đạo của đảng CSVN -Hiện nay VN có các chỉ số:
HDI-MINH BẠCH trên 100 là mức với 3 con số. Làm sao để phấn đấu mức với 2 con số??? Khi nào những lời phản biện của nhân sĩ yêu nước trong cũng như ngoài nước không bị qui kết là phản động thì sự phát triển mới bền vững..Đó là một thách thức!! Đóng góp Việt kiều hải ngoại 9 tỷ USD trong năm 2011(#10% GDP) có một ý nghiã rất lớn trong thời suy thoái KTế !! Tuy nhiên chưa vội mừng vì đây là dòng chảy vào , còn dòng chảy ra...!!!

...... 




VN 2011 - kinh tế khó khăn nhất từ 1991
Nguyễn Hùng
bbcvietnamese.com
Cập nhật: 13:16 GMT - thứ năm, 15 tháng 12, 2011
Nông nghiệp và nông dân đã 'cứu' kinh tế Việt Nam trong năm 2011?
Người từng đứng đầu viện nghiên cứu quản lý kinh tế trung ương của Việt Nam nói với BBC rằng kinh tế trong nước chưa bao giờ gặp những khó khăn như trong năm 2011 kể từ hồi năm 1991, năm đồng minh thân cận Liên Xô sụp đổ.
Tiến sỹ Lê Đăng Doanh nói bất chấp một số "điểm son", tăng trưởng kinh tế ở mức dưới 6%, lạm phát hai con số 19%, ít nhất hàng chục ngàn doanh nghiệp phá sản trong khi dự trữ ngoại hối chỉ tăng được nhờ vào lượng kiều hối tới chín tỷ đôla đổ vào Việt Nam.
Các bài liên quan
Chủ đề liên quan
Mặc dù vậy, ông nói Nghị quyết 11 hồi tháng Hai nhằm thắt chặt tiền tệ và chi tiêu công đã góp phần làm cho lạm phát giảm đi trong những tháng cuối năm.
Ngoài ra cam kết tái cơ cấu kinh tế do Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đưa ra hồi tháng Mười cũng được cho là một động thái tích cực.
'Thành tựu'
"Năm 2011 là một năm, theo đánh giá của tôi, là khó khăn nhất từ năm 1991 trở lại đây, tức là trong 20 năm gần đây.
"Nó thể hiện ở chỗ là mục tiêu lạm phát Quốc hội đề ra là 7% nhưng mà thực hiện khoảng 19%.
"Về mục tiêu tăng trưởng thì đề ra là 7,5%, thực hiện khoảng 5,8%.
"Và tiêu dùng của người dân giảm xuống mức rất thấp, hàng hóa tồn kho các mặt hàng lên cao chưa từng thấy.
"Cũng là lần đầu tiên mà số doanh nghiệp được tuyên bố là phá sản được công bố là 48.000 doanh nghiệp."
Nhưng Tiến sỹ Doanh cũng nói năm 2011 "có một số thành tựu đáng lưu ý" trong đó có xuất khẩu tăng 33%, chủ yếu tăng về giá và cán cân thanh toán quốc tế có thặng dự 3,3 tỷ đôla lần đầu tiên trong nhiều năm.
Bên cạnh đó lạm phát trong những tháng cuối năm cũng đã giảm đi nhờ chính sách thắt chặt tiền tệ đưa ra từ đầu năm 2011 cho dù vẫn có thể tăng nhẹ ở mức khoảng 0,5% trong tháng Mười Hai.
Tiến sỹ Lê Đăng Doanh
Ông Doanh nói lạm phát cao ở Việt Nam bắt nguồn từ tình trạng đưa tiền vào lưu thông ở mức 32% và tăng trưởng tín dụng lên tới trên dưới 40% (so với khoảng 9% của 2011) trong nhiều năm.
Vị Tiến sỹ giải thích thêm: "Đưa tiền ra nhiều như vậy mà đầu tư của doanh nghiệp nhà nước lại kém hiệu quả.
"Đầu tư 100 đồng thì hàng hóa, tài sản tạo ra được có lẽ chỉ khoảng 40, 50 đồng, còn lại 60, 50 đồng kia nó bốc hơi.
"Vì đưa nhiều tiền ra mà của cải tạo ra ít thì lúc bấy giờ có nguy cơ lạm phát."
'Căn bệnh trầm kha'
Chuyên gia nghiên cứu kinh tế hàng đầu của Việt Nam cũng nói tiền đồng của Việt Nam chịu sức ép nhiều so với đôla Mỹ do Việt Nam nhập khẩu hàng hóa nhiều hơn so với xuất khẩu.
Ông Doanh nói dự trữ ngoại hối của Việt Nam chỉ tăng lên được nhờ lượng kiều hối lên tới 9 tỷ đôla Mỹ.
Và mặc dù tiền đồng giảm sức mua tới 19%, nó chỉ mất giá khoảng 5-6% so với đôla Mỹ, ông Doanh nói.
Ông cũng nhận định vấn đề tỷ giá tiền đồng và đô la là "phức tạp" vì Việt Nam cũng chi nhiều đô la để nhập khẩu các mặt hàng phục vụ cho xuất khẩu và nếu tiền đồng mất giá thêm nữa, giá các sản phẩm xuất khẩu như dệt may và da giày sẽ tăng lên.

Ông Nguyễn Phú Trọng được đánh giá là đã đề cập tới hai 'căn bệnh trầm kha' của Việt Nam: lợi ích nhóm và tư duy nhiệm kỳ
Tiến sỹ Doanh cho hay nhiều doanh nghiệp cũng đổ xô đi vay tiền đô la trong năm 2011 ngay cả khi họ không cần tới đô la do có chênh lệch lãi suất.
Các doanh nghiệp chỉ phải trả mức lãi suất 6% khi vay đô la nhưng phải trả tới 21-25% khi vay tiền đồng và như vậy họ có thể kiếm lời chỉ qua việc vay đô la đem bán lấy tiền đồng.
Đây cũng là lý do khiến cho mức tăng trưởng tín dụng đô la ở mức 23%, cao hơn gấp đôi so với tiền đồng và đưa tổng số các khoản vay bằng tiền đô lên tới 7,6 tỷ.
Tiến sỹ Doanh nói chính sách tỷ giá bên cạnh chính sách tiền tệ, tín dụng trong Nghị quyết 11 được đưa ra trong tháng Hai năm 2011 là "điểm son" trong chính sách kinh tế của Việt Nam và là "bước ngoặt" trong việc ổn định kinh tế vĩ mô của Việt Nam.
Nhưng ông cũng nói việc "tiết kiệm và giảm đầu tư công" chưa thực hiện được nhiều và ngân sách vẫn bị bội chi.
Ông nói thêm: "Một nốt son khác của kinh tế Việt Nam đó là ngày 10/10 năm 2011, ông Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã đọc bài phát biểu bế mạc Hội nghị III của Ban chấp hành trung ương Đảng Việt Nam khóa XI và trong đó ông Nguyễn Phú Trọng đã thẳng thắn chỉ ra những thiếu sót, những yếu kém và đề ra nhiệm vụ đổi mới mô hình tăng trưởng, tái cơ cấu nền kinh tế.
"Trong đó nhấn mạnh tái cơ cấu đầu tư, trước hết là đầu tư công, tái cơ cấu hệ thống tài chính tiền tệ, trước hết là hệ thống ngân hàng, tái cơ cấu các doanh nghiệp nhà nước, trước hết là các tập đoàn và các tổng công ty của nhà nước.
"Ông Nguyễn Phú Trọng cũng lần đầu tiên nhắc tới lợi ích nhóm và tư duy nhiệm kỳ, là hai căn bệnh trầm kha của nền kinh tế Việt Nam mà phương thuốc chữa cho đến bây giờ vẫn chưa rõ ràng.
"Các ý tưởng chính sách đó đang được chính phủ soạn thảo để trình ra Quốc hội và Ban Chấp hành Trung ương Đảng sắp tới."
Chứng khoán 'cọng hành'
Tiến sỹ Doanh nói với BBC vấn đề lợi ích nhóm "thì ở đâu cũng có" nhưng điều quan trọng là cần có sự công khai minh bạch.
Một ví dụ ông đưa ra là gần đây người ta được biết rằng Tập đoàn Hoàng Anh Gia Lai được nhà nước cho vay tới 1.500 tỷ đồng trong khi có rất nhiều doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam điêu đứng vì thiếu vốn.
Ông cũng nói có "một số nhóm người" đã giàu lên nhanh chóng nhờ các dự án cơ sở hạ tầng trong khi giá đất bồi thường cho người dân rất thấp.
Điều này khiến cho các vụ khiếu kiện về đất đai là vấn đề lớn tại Việt Nam.
Tiến sỹ Doanh đánh giá nông dân và nông nghiệp "đã cứu kinh tế Việt Nam" trong năm 2011 vì tình hình sẽ "hết sức phức tạp" nếu tình trạng thiếu lương thực diễn ra bên cạnh lạm phát cao.
Khi được đề nghị bình luận về thị trường nhà đất và chứng khoán, Tiến sỹ Doanh nói đa số các hãng bất động sản dựa vào tín dụng ngân hàng và tình trạng thắt chặt tiền tệ và lãi suất cao khiến nhiều công ty phải "bán tháo" bất động sản.
"Còn về chứng khoán ở Việt Nam thì giảm sút rất nghiêm trọng," ông nói.
"Vừa rồi báo chí đã có đưa lên, tức là ở Hà Nội đây có chứng khoán chỉ còn có giá 700 đồng Việt Nam, tức tương đương ba cọng hành ngoài chợ."
Tiến sỹ Lê Đăng Doanh
"Tôi không nghĩ là thị trường chứng khoán Việt Nam có thể tăng trưởng mạnh bởi vì các nguồn vốn đầu tư ở bên ngoài đã rút đi và tín dụng được thắt chặt thì nguồn vốn để bơm vào thị trường chứng khoán Việt Nam sẽ không được dồi dào như trước đây."
Nhìn tới năm 2012, ông Doanh nói kinh tế thế giới khó khăn hơn trong khi cuộc khủng hoảng nợ công ở Châu Âu vẫn "chưa có lời giải".
Nhưng nếu Việt Nam tái cơ cấu lại kinh tế thành công thì ngay cả với nguồn vốn ít hơn Việt Nam vẫn có khả năng đạt mức tăng trưởng 6,5%, ông nhận định.
Vị Tiến sỹ cũng cho rằng việc giảm được lạm phát xuống dưới 10% trong năm 2012 "sẽ là kỳ tích" trong khi tiền đồng tiếp tục chịu sức ép của đồng đôla Mỹ do thâm hụt thương mại.
Lâm Văn Bé    : Khi Việt Nam bắt đầu mở cửa với chánh sách gọi là «đổi mới» vào cuối thập niên 80, khi sinh viên Việt Nam lũ lượt ra nước ngoài du học hay tu nghiệp, nhiều người Việt Nam trong nước và nhất là ở hải ngoại hi vọng nước Việt Nam sẽ lần lần thoát khỏi được chế độ độc tài, nghèo đói và chậm tiến. Họ hi vọng với sự tiếp cận tinh thần tự do và kỹ thuật Tây phương, đất nước Việt Nam sẽ được khai phóng hơn. Nhưng đó chỉ là ảo vọng. Trong 20 năm qua, hàng ngàn sinh viên Việt Nam du học và tu nghiệp ở các nước dân chủ và kỹ nghệ đã trở về nước, chẳng những không giúp gì cho đất nước khả quan hơn mà còn đồng lỏa với những người lãnh đạo bất tài, vô lương để gia tăng thêm guồng máy tham nhũng, đưa đất nước mỗi ngày mỗi tồi tệ hơn. Hãy nhìn vài ủy viên trung ương đảng và biết bao Bộ trưởng, Tổng giám đốc, Giám đốc cơ quan là những sinh viên tốt nghiệp từ Mỹ, Canada, Úc, Anh, Đức, Pháp, họ chỉ lợi dụng cái nhãn hiệu du học ngoại quốc để vinh thân phì da. Họ chỉ là những cái lọ bằng đất sét được tráng men và một đất nước bị cái trị bằng những cái đầu nhồi nhét đất sét thì làm sao khá lên được.

Lâm Văn Bé    :  Khi cuộc «cách mạng mùa xuân» lần lượt bùng nổ tại các quốc gia Á Rập, nhiều người Việt Nam ở hải ngoại và một ít người Việt Nam trong nước hớn hở.  Người Việt hải ngoại hi vọng những biến cố nầy sẽ lan tràn đến Việt Nam. Nhưng hi vọng ấy chóng đi qua  bởi lẽ Việt Nam hôm nay chưa hội tụ đủ những yếu tố của một cuộc «cách mạng mùa xuân Á Rập » Đây được xem là là âm mưu của bọn phản động và các thế lực thù địch.!!
Trước tiên phải kể đến chế độ kiểm soát, kềm kẹp người dân VN quá tinh vi và nghiệt ngã. Tuy những thống kê của nhà nước mang bản chất phô trương, khoác lác, với con số 3 triệu đảng viên, 2 triệu cảnh sát công an và nửa triệu quân nhân, tuy vẫn biết có nhiều đảng viên bất mãn vì bị lừa dối hay bị bạc đãi, và không phải cảnh sát công an nào cũng có được chức vụ để có thể tham nhũng trong một xã hội có nền văn hóa phong bì, nhưng phải hiểu là thành phần trung kiên, cúc cung tận tụy cho chế độ, chiến đấu cho chế độ đến giọt máu cuối cùng để cùng chia sẻ và bảo vệ quyền lợi cũng rất đông đảo. Bị nhuộm đỏ khối óc và đánh mất lương tri, nhóm đảng viên lớn nhỏ nầy đang chia chác các đặc quyền đặc lợi trong một hệ thống quyền lực mafia, dùng mọi biện pháp sắt máu để cai trị và bóc lột người dân còn thậm tệ hơn thời Pháp thuộc.
Trong lịch sử, cuộc cách mạng nào cũng bắt đầu bằng sự nổi dậy của khối người bị áp bức. Nhưng muốn cảm nhận được sự áp bức, người dân cần được thông tin những quyền lợi căn bản của con người, những cảnh sống tự do, no ấm để từ đó cảm nhận thân phận mà đòi hỏi.  Người dân chỉ được quyền nghe biết những gì chánh phủ nói. Từ khi có truyền thông qua trang mạng, thông tin tuy có lưu hành nhiều hơn, nhưng luôn bị bức tường lửa ngăn chận. Internet vẫn còn là phương tiện truyền thông của lớp thị dân trung lưu hay giàu có, vốn là thành phần bằng lòng với cuộc sống, với chế độ, trong khi 80% dân số là những nông dân, thợ thuyền nghèo khổ, ít học, phải vật vã với bữa no bữa đói thì thời giờ tim óc đâu mà nghe tin tức, mà nghĩ đến đấu tranh trong cảnh giành giựt giữa những người đồng cảnh ngộ và trạng thái kềm kẹp thường xuyên của hệ thống cán bộ, công an .
Ngoài chuyện thông tin từ thế giới bên ngoài và trong nước bị bưng bít, bị kiểm duyệt, cơ cấu dân số VN hiện nay còn là một yếu tố giải thích phần nào lý do cuộc « cách mạng mùa xuân» chưa đến VN. Nếu tính với người dân VN sinh ra sau 1975 thì thành phần nầy nay đã 35 tuổi và nếu phải kể thêm những đứa trẻ khoảng 5 tuổi vào năm 1975 thì đến nay họ cũng đã đến tuổi 40. Đó là thế hệ người Việt chẳng biết gì về chiến tranh Việt Nam, chẳng có ý niệm gì về chế độ Việt Nam Cộng Hòa. Năm 2008, số người VN đưới 40 tuổi chiếm đến 66% dân số. Ngoài ra, lớp trẻ sinh ra sau 1986 là năm cộng sản bắt đầu chánh sách đổi mới kinh tế thì đến nay lớp người nầy đã hơn 20 tuổi. Dĩ nhiên, sanh ra và lớn lên trong nền giáo dục bác đảng và văn hóa phong bì, đa số người Việt Nam trong nước hiện nay không có chọn lựa nào khác là phải sống theo những bản chất của người cộng sản.
Khi 36 người tự xưng là trí thức gởi thư ngỏ cho chánh phủ bạo quyền, nhiều chống đối và mỉa mai vì «quá khứ» của người chủ xướng và cung cách, ngôn từ sử dụng trong thư ngỏ đã khiến một số người có thành tín, ưu tư với đất nước đồng ký tên bị vạ lây.. Những cuộc biểu tình, tuyên ngôn, bài viết, bài nói chuyện của cộng đồng người Việt tỵ nạn qua các phương tiện truyền thông phổ biến khắp năm châu là một sức mạnh  bởi lẽ đó là tiếng nói của người Việt tự do nói cho Thế giới tự do
Hàng năm, vào dịp Tết, dịp hè, hàng triệu người Việt, trước đây đã bị bạo quyền đày ải trong các trại tù, trại cải tạo, hay nín thở trong các đám lau sậy chờ giờ lên ghe, đi tìm cái sống trong cái chết, thì nay họ đã sớm quên những ngày ngục tù, nhục nhã khi xưa, nhởn nhơ trở về du hí trên cái đất nước mà đồng bào họ không có cơ may vượt thoát được. Sự có mặt của những du khách Việt kiều nầy cũng là một nguyên nhân khiến cho «cuộc cách mạng mùa xuân» chậm đến. Họ hằn sâu thêm hố ngăn cách giàu nghèo và niềm cay đắng giữa những người đồng cảnh ngộ khi xưa, và dưới mắt của người bất hạnh, có gì khác biệt trong sự phản bội giữa người bạn cũ và người thù mới. Người bạn cũ phải ngoảnh mặt để khỏi bị tủi nhục mà kẻ thù mới còn khinh rẻ họ nhiều. Tuy nhiên, không phải ai trở về cũng là những du khách bị «mất trí». Có những người, phải nói là hiếm hoi, trở về quê để xây lại mồ mã tổ tiên , hay mang về những món quà mà họ đã chắt chiu dành dụm trong những ngày lao tâm lao lực ở xứ người để tiếp sức cầm hơi cho thân nhân đói khổ, thông tin cho người bị bịt tai biết được những quyền tự do, bình đẳng ở thế giới bên ngoài để như vết dầu thắp sáng ngọn nến cách mạng. Nếu cứ mỗi năm, hai triệu du khách Việt kiều trên các nẽo đường du hí, thay vì nhi nhô tiếng Tây tiếng Mỹ, khoe khoang nhà cao cửa rộng, thực hay láo, làm cho đồng bào nghèo khổ càng thêm bi phẩn, thì hãy  mang về cho đồng bào những bản tin, những tấm ảnh, công ty Vinashin bị tập đoàn lãnh đạo tham nhũng hàng tỷ mỹ kim, để cho người dân biết được sự thật bị bít kín.
Nghĩ cho cùng, lịch sử chỉ là sự lập lại những biến cố giống nhau trong những thời điểm và địa điểm khác nhau. Mọi chế độ độc tài rồi cũng bị tiêu diệt. Hình ảnh cha con Kadhafi phơi thây sình thúi trong cái nhà kho, Moubarak nằm im bất động trên cái «băng ca» trước tòa án, phải chăng đó cũng là hình ảnh ngày tàn của những bạo chúa .  Lâm Văn Bé   
Tài liệu tham khảo
- Bùi Tín. Mặt Thật.- Paris : Turpin Press, 1994.
- Hoàng Dung. Sau bức màn đỏ. – Virginia : Tiếng Quê Hương, 2007.
- Hoàng Hữu Quýnh. Tôi bỏ đảng.- Midway City : Mister Print, 2002.
- Vy Thanh. Lớn lên với đất nước.- Westminster : Tủ sách Sự Thật, 2006.
- Các trang mạng điện tử trong đó có bài viết của Hoàng Dũng.

2012 Sự kỳ diệu Việt Nam

Sự kỳ diệu Việt Nam

Cập nhật: 15:53 GMT - thứ năm, 12 tháng 7, 2012
Việt Nam
Tạp chí có uy tín Foreign Policy xuất bản tại Hoa Kỳ vừa có bài viết của tác giả Geoffrey Cain, tựa đề "Kết thúc sự kỳ diệu Việt Nam", nói về tình hình kinh tế không mấy lạc quan ở đây. BBCVietnamese.com xin giới thiệu cùng quý vị.
Bài viết bắt đầu bằng câu chuyện của một doanh nghiệp nhỏ, mà ông chủ tên là Nguyễn Văn Nguyên "chỉ thấy tương lai ảm đạm". Chuyên sản xuất mành trúc, công ty Bình Minh của ông đang vật lộn với lạm phát đi lên trong khi lượng đặt hàng từ nước ngoài đi xuỗng vì suy thoái kinh tế thế giới.
Các công nhân của ông Nguyên bị giảm lương từ mức chừng 200 đôla xuống 120 đôla, và ông cũng thuê mướn ít người hơn trước.
"Đảng Cộng sản Việt Nam muốn các nhà đầu tư xem trường hợp ông Nguyên như một ca đơn lẻ và bị ảnh hưởng của sụt giảm kinh tế toàn cầu, hơn là sự yếu kém về hệ thống."
Tác giả nhắc lại rằng kể từ khi bắt đầu tiến trình Đổi mới, Việt Nam đã tăng trưởng nhanh mạnh, và cho tới tận khoảng bốn năm trước đây vẫn còn được nhắc tới như một trong các hình mẫu thành công của Á châu.
Khi gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới năm 2007, lãnh đạo Việt Nam đã đưa ra cam kết tái cấu trúc nền kinh tế cũng như cải tổ lại khối doanh nghiệp nhà nước vốn bị cho là thiếu hiệu quả và lãng phí thông qua tiến trình cổ phần hóa.
Quỹ Tiền tệ Quốc tế từ năm 2007 cũng đưa ra dự báo rằng cải cách hệ thống kinh tế sẽ tạo sân chơi công bằng cho các doanh nghiệp trong và ngoài nước.
Với đầu tư nước ngoài đổ vào trong những năm 2000, đầu tư năm 2008 tăng gấp ba so với mức năm 2006, Việt Nam từng được Goldman Sachs ví như "con hổ châu Á đang dần thành hình".
Thậm chí có nhà phân tích ờ Mỹ còn bình luận: "Các nhà đầu tư ngoại quốc không quan tâm tới điều hành hay chính sách. Họ coi giá nhân công rẻ là động lực".

Cái nhìn thiển cận và đắt giá

Việc tảng lờ chính trị để tập trung vào khía cạnh kinh tế, theo Geoffrey Cain, là "thiển cận và đắt giá".
Một Việt Nam của năm 2012, với đồng nội tệ yếu ớt, lạm phát cao, nạn quan liêu và chủ nghĩa thân hữu, dẫn tới thiệt hại hàng tỷ đô la, là điều ít người lường trước được.
Tác giả bài viết cũng nhắc tới các quyết định kinh tế khó hiểu của chính phủ, như "xây các cảng biển hay đường xá ở những nơi kỳ quặc, không có giá trị về kinh tế".
Tình hình bắt đầu trở nên tồi tệ khi Việt Nam tung ra chương trình hỗ trợ tín dụng 100 tỷ đôla trong các năm 2007-2010, nhưng thay vì hướng về các doanh nghiệp tư nhân thì nguồn vốn lại được chuyển tới các doanh nghiệp nhà nước có quan hệ với chính giới, để các công ty này mở ra hoạt động trong các lĩnh vực bên ngoài, gây áp lực lạm phát.
"Các Đảng viên Cộng sản bị mắc chứng bệnh sợ hãi phải chia sẻ quyền lợi với các công ty tư nhân, nhất là những doanh nghiệp nước ngoài."
Quá nhiều tiền, các doanh nghiệp nhà nước này đã chèn ép các đối thủ cạnh tranh nhỏ hơn và hoạt động hiệu quả hơn.
Tổng công ty tàu thủy Vinashin, với 60.000 công nhân viên và 28 xưởng đóng tàu, mở ra tới 300 công ty con bao gồm từ sản xuất xe máy tới kinh doanh khách sạn.
Năm 2010, Vinashin bị phát giác gian dối trong tài chính và gần như sụp đổ dưới khoản nợ 4,4 tỷ đôla, tương đương 5% GDP của Việt Nam. Tập đoàn này cũng không trả được khoản vay 400 triệu đôla do Credit Suisse môi giới.
Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng, người từng bảo trợ cho Vinashin, buộ̣c phải xin lỗi trước Quốc hội trong một phiên tự phê trong khi các đối thủ của ông như tìm thấy con dê tế thần. Tám lãnh đạo tập đoàn Vinashin nhận án tù tháng Ba vừa qua.
Thế nhưng thay vì tăng cường tiến trình tư nhân hóa hứa hẹn từ những năm 1990, vụ Vinashin dường như bị vùi lấp.
Các vụ đổ bể tương tự Vinashin còn nhiều, nhưng những mạng lưới bù đắp bí mật đã cho phép những tập đoàn này che đậy những thống kê yếu kém hàng năm trời, theo kết quả phỏng vấn những biên tập viên các báo chính thống vào năm 2011.
Vào tháng Năm 2012, một cuộc điều tra của chính phủ đã phát hiện ra tập đoàn tàu thủy Vinalines mất khả năng trả năm món nợ tổng giá trị lên đến 1,1 tỷ đôla cùng với một khoản nợ tích lũy lên đến 2,1 tỷ đôla, gấp bốn lần giá trị tổng khối tài sản của họ.
Từ tháng Hai, bốn lãnh đạo đã bị bắt giam vì bê bối trong quản lí vốn Nhà nước. Trong lúc đó, chính quyền Việt Nam vẫn tiếp tục săn lùng Chủ tịch cũ của tập đoàn này.

Mất thế mạnh

Các nhà đầu tư nước ngoài, vốn đang đối mặt với giá lao động và vật liệu ngày càng tăng cao đang bắt đầu lo ngại rằng Việt Nam đang mất đi thế mạnh giá cả. Bốn nhà đầu tư nước ngoài đã phàn nàn trong những buổi phỏng vấn hai năm trước rằng những tập đoàn Nhà nước đã thao túng vị trí người giữ cửa ngành công nghiệp của Chính phủ.
"Họ thật là phiền toái", một luật sư doanh nghiệp tại thành phố Hồ Chí Minh cho biết. "Không ai muốn phải dính dáng vào những người này cả"
Trong khi những nhà cầm quyền Việt Nam đang tìm cách trấn an những nhà đầu tư rằng thời khắc tồi tệ nhất đã qua, bản thống kê của Chính phủ được công bố vào tháng Sáu cho thấy có ít nhất 30 tập đoàn Nhà nước nữa đang phải đứng trước những gánh nặng nợ ngoài tầm kiểm soát
Một vấn đề tiềm ẩn nữa đó là Việt Nam không giống như Trung Quốc. Các Đảng viên Cộng sản bị mắc chứng bệnh sợ hãi phải chia sẻ quyền lợi với các công ty tư nhân, nhất là những doanh nghiệp nước ngoài.
Ở Trung Quốc, chính quyền nói chung vẫn tìm cách giữ tính cạnh tranh cho các thị trường bằng cách thu hút các doanh nghiệp tư nhân, cải cách quản lý, tư hữu hóa hơn 90.000 tập đoàn có giá trị hơn 1,4 nghìn tỷ đôla giữa thời điểm năm 1998 và 2005 và gần đây nhất là việc loại trừ những kẻ đội lốt Mao Trạch Đông thời hiện đại như Bí thư Trùng Khánh Bạc Hy Lai.
"Các lãnh đạo Việt Nam vẫn chưa tìm ra cách để sửa chữa nền kinh tế của mình mà không phải từ bỏ bớt quyền lực chính trị - một bước đi mà họ không sẵn sàng thực hiện."
Các lãnh đạo Việt Nam vẫn chưa tìm ra cách để sửa chữa nền kinh tế của mình mà không phải từ bỏ bớt quyền lực chính trị - một bước đi mà họ không sẵn sàng thực hiện.
Thay vào việc dọn dẹp đống tơ nhện giữa các doanh nghiệp nhà nước và những nhà chính trị đỡ đầu của họ, những người nắm quyền lực lại khởi đầu một chiến dịch chống lại một thế hệ doanh nghiệp kiêm lập pháp gia mới phất lên.
Vào cuối tháng Năm, Quốc hội đã bầu 96% phiếu thuận để bãi nhiệm Đại biểu Đặng Thị Hoàng Yến, một trong số ít ỏi những nhà tư bản không nằm trong bộ phận chính phủ khi cơ quan lập pháp buộc tội bà gian dối về lời khai trong hồ sơ cá nhân.
Tội lỗi thực sự của bà Yến: liên tục kêu gọi những chính sách công bằng đối với các doanh nghiệp tư nhân, vốn chiếm hơn một nửa nền kinh tế.
"Làm sạch hệ thống là một điều mà chính quyền bây giờ không thể kham nổi" - Ông David Brown, một cựu quan chức ngoại giao người Mỹ tại Hà Nội cho biết.
Vào tháng Sáu, việc Chính phủ thắt chặt tín dụng đã giúp giảm lạm phát từ 23% tháng Tám năm ngoái xuống 6,9%. Vấn đề lúc này là vấn nạn tín dụng lỏng lẻo đã tăng cao những nguy cơ khủng hoảng ngân hàng.
Sau hai vụ sụp đổ kinh hoàng của hai doanh nghiệp Nhà nước, Chính phủ đã phải thừa nhận rằng hệ thống tài chính của mình có vấn đề.

Tăng quan liêu

Thống đốc Ngân hàng Trung ương Nguyễn Văn Bình nói vào tháng Sáu rằng hết 10% nợ tại các Ngân hàng Việt Nam là nợ xấu. Thay vì cải cách nền kinh tế, Chính phủ đang đưa ra những cách giải quyết không có gì mới: kế hoạch xây dựng một Ủy ban quản lý tài sản với số vốn 4,8 tỷ đôla để đối phó với các khoản nợ.
 
Nền kinh tế đang èo uột lại thêm nợ xấu
Tuy nhiên điều này chỉ có nghĩa là lại có thêm một bộ máy quan liêu đặt trong một hệ thống bảo trợ giữa những lãnh đạo cấp cao, các ngân hàng và các công ty.
Ông Denny Cowger, một luật sư doanh nghiệp tại hãng luật Duane Morris của Mỹ có chi nhánh tại Hà Nội và TP Hồ Chí Minh cho biết những nhà đầu tư hiện tại rất phàn nàn về những gánh nặng của nạn quan liêu, và rất nhiều người hiện tại đang tính đến việc chuyển đến Indonesia, Bangladesh và Myanmar.
Trong báo cáo của Diễn đàn Kinh tế Thế giới năm 2011 và 2012, Việt Nam đã tụt mất sáu hạng từ hạng 65 bởi vì những gánh nặng liên quan đến pháp luật, lạm phát, thâm hụt ngân sách và sự xuống cấp của hạ tầng cơ sở. Diễn đàn này tuy nhiên cũng đã có lời tán dương một thị trường lao động "khá hiệu quả" và những tiềm năng cải tiến.
Trong lúc đó, lĩnh vực quốc doanh vẫn ngấu nghiến hết đến 40% GDP.
"Kết luận cuối cùng đó là Việt Nam cần phải tiến hành những cải cách kinh tế quốc nội cơ bản để có thể đảm bảo tính cạnh tranh" - Ông Carl Thayer, một giáo sư có uy tín tại trường Đại học New South Wales cho biết.
"Tuy nhiên những nhà lãnh đạo của Việt Nam sẽ tiếp tục sử dụng vấn đề khủng hoảng kinh tế toàn cầu như một lời bào chữa cho thực trạng không mấy thay đổi." - ông này thêm.

Điều gì đang diễn ra với nền kinh tế VN?

Cập nhật: 15:11 GMT - thứ tư, 11 tháng 7, 2012
Tình hình kinh tế Việt Nam bấy lâu nay có nhiều biến động với nhiều luồng thông tin trái chiều, khiến dân và thậm chí cả giới phân tích rất khó để có thể thực sự định hình được những gì đang diễn ra trong nền kinh tế.
Một mặt là những con số rất lạc quan của chính phủ rằng tăng trưởng sẽ đạt mức trên 5-6% cho cả năm 2012, lạm phát đi xuống một cách đáng kể từ 18% xuống còn 7% kèm theo việc mở rộng những chính sách tiền tệ khiến cho lãi suất ngân hàng hiện giờ giảm chỉ ở mức trên dưới 15%/năm tạo điều kiện vốn cho các doanh nghiệp.
Mặt khác, vẫn có những báo cáo liên tiếp về thâm hụt thương mại cùng với các khoản vay khổng lồ của chính phủ khiến cho nợ nước ngoài càng ngày càng cao, hay tỉ lệ nợ xấu trong khối ngân hàng cũng tăng một cách đáng kể.
Các doanh nghiệp vẫn tiếp tục kinh doanh thua lỗ, trên bờ vực phá sản, hay đã phá sản trong thời gian gần đây.
Những dự báo về giảm phát là hoàn toàn có cơ sở khi môi trường kinh doanh khó khăn khiến cho tỷ lệ thất nghiệp gia tăng.
Điều đó cũng sẽ đồng nghĩa với một nền kinh tế thay vì tăng trưởng thì ngược lại đang rơi vào suy thoái, khi mà giá cả giảm xuất phát từ sức mua yếu do người dân không còn có khả năng để chi trả và đã nghèo đi một cách đáng kể.
Những con số
Hiện chưa rõ số nợ xấu cho vay bất động sản trong toàn bộ hệ thống ngân hàng và tín dụng.
Tuy nhiên, những con số thống kê dường như đang mâu thuẫn và không phản ánh đúng bản chất của nền kinh tế, đặc biệt là khi với số doanh nghiệp thua lỗ chờ phá sản và đã phá sản trong khoảng 6 tháng đầu năm nay đã lên tới hàng chục nghìn.
Mặc dù các số liệu từ tổng cục thống kê cho thấy tỉ lệ thất nghiệp ở Việt Nam chỉ ở mức 2.29%, con số này là quá thấp so với số lượng các doanh nghiệp đang giải thể hàng loạt trong khoảng hơn 1 năm gần đây.
Ở một quốc gia với hơn 80% dân số sống bằng nông nghiệp, phải chăng một lực lượng lớn lao động nông nhàn ở nông thôn cũng được tính là không thất nghiệp?
Trong khoảng 3 năm trở lại đây, khi thị trường chứng khoán – thước đo sức khoẻ của nền kinh tế - mất 30-40% giá trị, người ta tự hỏi những con số về tăng trưởng ở mức trên dưới 6%/năm là do đâu?
Với lượng của cải vật chất làm ra trong xã hội thấp đi trông thấy cùng với sự giảm sút của tổng cầu và thâm hụt trong cán cân thương mại thì con số tăng trưởng 4.38% trong 6 tháng vừa qua, hay thậm chí là một mức tăng trưởng dương dường như là rất phi lý.
"Trong khi khối ngân hàng và các nhà đầu tư bất động sản đạt được những lợi nhuận khổng lồ bằng việc đầu cơ, quả bong bóng bất động sản này không hề tạo ra những giá trị thực sự cho phát triển kinh tế như khối sản xuất"
Cũng có thể giải thích rằng mức tăng trưởng này đạt được do sự đầu cơ trên thị trường bất động sản và tài chính ngân hàng đã thổi phồng lên những bong bóng giá trị cho những dự án đầu tư, quy hoạch các khu đô thị mới, chung cư cao tầng, biệt thự sang trọng, mà phần nhiều trong số đó đang trở thành những khu đất bỏ hoang không ai ở do nhu cầu thực sự là không cao.
Trong khi khối ngân hàng và các nhà đầu tư bất động sản đạt được những lợi nhuận khổng lồ bằng việc đầu cơ, quả bong bóng bất động sản này không hề tạo ra những giá trị thực sự cho phát triển kinh tế như khối sản xuất.
Các yếu tố tích cực khác có thể ảnh hưởng đến nền kinh tế như đầu tư nước ngoài là thiếu bền vững.
Chi tiêu của chính phủ chủ yếu dựa trên việc in tiền kể từ sau thảm họa Vinashin khiến chính phủ Việt Nam gần như bất lực trong việc phát hành trái phiếu quốc tế cũng tiềm tàng nhiều nguy cơ bất ổn cho nền kinh tế.
Từ nơi quán nước vỉa hè với những bài vè mang đậm màu sắc châm biếm đến những bản báo cáo từ phòng máy lạnh của chính phủ và các ngân hàng đầu tư đang có những sự bất đồng sâu sắc.
Nhóm lợi ích
Tổng bí thư Trọng đã nói về điều ông gọi là "tư duy nhiệm kỳ" và "nhóm lợi ích".
Cũng có thể hiểu rằng các chính sách của chính phủ để điểu chỉnh kinh tế sẽ mất một thời gian để phát huy tác dụng. Nhưng nhiều chuyên gia phân tích vẫn đang thật sự hoài nghi về tính đúng đắn của các chính sách này.
Nếu như việc khống chế lãi suất tương tự như Ngân Hàng Trung Ương Mỹ sử dụng từ khủng hoảng kinh tế 2008 đến nay đã tỏ ra rất hữu hiệu trong việc hỗ trợ các doanh nghiệp và duy trì tăng trưởng cũng như đang trở thành xu thế chung về mặt chính sách khi đương đầu với khủng hoảng, một chính sách tương tự đã không được chính phủ Việt Nam sử dụng cho đến vài tuần trước đây.
"Có lẽ mấu chốt phải là cân bằng được quyền lợi của các nhóm đại gia ngân hàng, bất động sản, doanh nghiệp nhà nước được rất nhiều hậu thuẫn của chính phủ với khối doanh nghiệp tư nhân và phần lớn người dân"
Ngược lại, lãi suất trong nước được thả trôi nhiều lúc lên tận 20-25% và lãi suất dưới gầm bàn cho doanh nghiệp muốn vay vốn thậm chí còn cao hơn khiến doanh nghiệp khốn đốn.
Tuy vậy, giảm lãi suất một cách nhanh chóng và đột ngột chưa chắc đã đi cùng với việc doanh nghiệp có thể hay thậm chí là muốn tiếp cận với nguồn hỗ trợ vốn từ ngân hàng.
Cùng với những dự báo về giảm phát và suy thoái, việc giảm lãi suất đột ngột trong hệ thống ngân hàng sẽ không những không thúc đẩy được phát triển kinh tế mà thậm chí còn có thể gây ra hiện tượng bẫy thanh khoản (liquidity trap) như trong nền kinh tế Nhật Bản trong thập niên 1990 khi người dân sẽ thích giữ tiền mặt hơn gửi tiết kiệm khiến cho hệ thống ngân hàng trở nên thiếu vốn. Không những đầu tư cá nhân sẽ giảm, điều này còn sẽ dẫn đến nhiều hơn những sự ưu tiên về vốn cho doanh nghiệp nhà nước mà phần lớn vốn đã làm ăn thiếu hiệu quả nhưng luôn có sự bảo trợ từ nhà nước từ việc in tiền.
Doanh nghiệp tư nhân nhiều khả năng là vẫn sẽ gặp khó khăn hay sẽ phải vay với lãi suất cao hơn gấp nhiều lần. Khi trần lãi suất huy động thấp hơn nhiều so với lãi suất cho vay, các nhóm lợi ích tài chính ngân hàng sẽ càng được lợi trên sự khốn đốn của doanh nghiệp.
Bài toán giải quyết nền kinh tế Việt Nam để cứu các doanh nghiệp sản xuất người tạo ra của cải vật chất cho xã hội hiện giờ là một bài toán khó. Song song với các chính sách tiền tệ, cần phải có những chính sách tài khoá, giảm đầu tư công không hiệu quả và thay vào đó là đầu tư nhiều vào khu vực tư nhân.
Có lẽ mấu chốt phải là cân bằng được quyền lợi của các nhóm đại gia ngân hàng, bất động sản, doanh nghiệp nhà nước vốn đã được rất nhiều hậu thuẫn của chính phủ với khối doanh nghiệp sản xuất tư nhân và phần lớn người dân đã phải chịu nhiều thiệt thòi với những chính sách kinh tế đáng thất vọng suốt vài năm qua.
Bài viết phản ánh quan điểm riêng của tác giả, sinh viên Đại học Cornell, chuyên ngành Triết Học - Chính Trị - Kinh Tế.

Thứ Năm, 12 tháng 7, 2012

2008-2012 KINHTẾ VN

 Cảnh báo Harvard?

Cập nhật: 13:13 GMT - thứ tư, 11 tháng 7, 2012
Cuốn 'cẩm nang' cho chiến lược phát triển Việt Nam kèm cảnh báo về hậu quả của đường lối hiện tại của Việt Nam mà các giáo sư Havard trao tận tay Thủ Tướng Nguyễn Tấn Dũng đến nay vẫn bị bỏ qua và không được công bố trước công chúng.
Hai năm sau khi nhậm chức, vào năm 2008, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã tìm đến Trường Kennedy thuộc Đại Học Harvard để tham vấn về một chiến lược phát triển đất nước trong giai đoạn 2011- 2020 qua “Chương Trình Châu Á” của Đại học này.
Cuộc gặp gỡ được báo chí trong nước ca ngợi là cởi mở, thẳng thắn và mang lại nhiều hi vọng phát triển cho Việt Nam.
Tuy nhiên cho đến ngày hôm nay, trước thực trạng kinh tế xã hội Việt Nam, nhiều ý kiến cho rằng những chiến lược cùng các lời cảnh báo mà nhóm nghiên cứu gồm các vị David Dapice, Dwight Perkins, Nguyễn Xuân Thành, Vũ Thành Tự Anh, Huỳnh Thế Du, Jonathan R. Pincus, Anthony Saich, Benjamin H. Wilkinson đưa ra đã bị phớt lờ.

Các nhóm đặc quyền

Bốn năm trước, nhóm giáo sư Harvard đã cảnh báo trước hậu quả từ sự trục lợi của các nhóm đặc quyền có ảnh hưởng chính trị lớn đang biến của công thành của riêng khiến chất lượng đầu tư công vào các Doanh nghiệp Nhà nước (DNNN) không hiệu quả, làm mất đi nguồn lực vươn lên của Việt Nam trong lúc nền kinh tế lẫn người dân vẫn phải chịu gánh nặng kinh phí.
“Sự ưu ái của Nhà Nước đối với các công ty dựa vào các mối quan hệ chính trị hơn là kết quả thành công trong kinh doanh”.
“Các doanh nghiệp này vẫn được hỗ trợ vốn dù thua lỗ liên tiếp và chậm chạp trong việc nâng cao chất lượng kinh doanh vì tầm nhìn hẹp và không phải hoạt động trong môi trường cạnh tranh.”
"Nhà Nước sẽ trở nên “quá tải” trong vai trò quản lí của mình."
“Nếu như không có hệ thống kiểm soát đủ mạnh và khả năng phân tán rủi ro hiệu quả thì sẽ dẫn đến những khoản vay và đầu tư quá mức của các tập đoàn này,” theo lời trích dẫn tập tài liệu.
Bốn năm sau, Việt Nam chìm ngập trong các vụ tai tiếng từ sự đổ bể của các doanh nghiệp nhà nước với thiệt hại lên đến hàng trăm ngàn tỉ, gấp nhiều lần gói hỗ trợ doanh nghiệp của Chính phủ trong năm 2012.
Tiến sĩ Nguyễn Đình Cung – Viện Nghiên cứu Kinh tế Trung Ương nhận xét về doanh nghiệp nhà nước là “Lời ăn, lỗ cũng ăn và dân chịu.”
“Các nhóm đặc quyền này sẽ tiếp tục ngăn cản Việt Nam trong công cuộc cải cách, ảnh hưởng tới năng lực cạnh tranh và hạn chế kết quả tăng trưởng của Việt Nam,” nhóm nghiên cứu Harvard viết.

Quản lí yếu kém 

Sự sụp đổ của Vinashin và Vinalines là hoàn toàn được báo trước
“Hệ thống quản lí yếu kém đã luôn là nguyên nhân dẫn đến các nguồn đầu tư được sử dụng không đúng lúc, đúng nơi.”
“Lạm phát là kết quả từ những chính sách sai lầm của chính phủ, chủ yếu xuất phát từ yếu kém trong điều hành kinh tế vĩ mô và hoạt động đầu tư công kém hiệu quả.” – Trích dẫn tập tài liệu.
Với quyền lực tập trung chủ yếu vào các nhóm đặc quyền nói trên, tập tài liệu đã cảnh báo Nhà Nước sẽ trở nên “quá tải” trong vai trò quản lí của mình.
Sự quá tải này tạo cơ hội cho doanh nghiệp nhà nước thả sức phớt lờ chủ trương của Nhà Nước yêu cầu họ tập trung vào những ngành chiến lược và thay vào đó, mở rộng hoạt động kinh doanh sang nhiều lĩnh vực, đồng thời tạo ra các công ty độc quyền trong nước để ngăn chặn cạnh tranh từ công ty nước ngoài.
Quả thực, vụ tai tiếng Vinalines và Vinashin và mức lạm phát lên đến 22% năm ngoái được giới quan sát cho là sự cao trào của trạng thái quá tải và yếu kém trong công tác quản lí.
“Quản lí yếu kém đồng thời cũng giúp người giàu tránh không phải trả những khoản thuế ... Khi nguồn thu quan trọng của ngân sách bị xói mòn thì nhà nước sẽ không đủ tiền tài trợ cho chi tiêu công”
“Sự tự do hóa tài chính cũng xảy ra quá sớm trong khi hệ thống tài chính được thiết kế không thích hợp và chưa rõ ràng. Điều này tạo cơ hội cho hiện tượng đầu cơ và tạo các bong bóng tài sản.” – Nhóm giáo sư Havard cảnh báo.
Trên thực tế, sự vỡ bong bóng của thị trường chứng khoán Việt Nam đóng góp bởi các giao dịch nội gián và hiện tượng đầu cơ đã chứng minh những cảnh báo này là đúng.
Nghị Quyết số 11 được Chính Phủ đưa ra nhằm “chữa cháy” dường như đã quá muộn màng, khi các báo cáo năm 2012 cho thấy nền kinh tế Việt Nam đang đối mặt với khối Bấm nợ xấu khổng lồ trong bối cảnh doanh nghiệp thay nhau phá sản và hiểm họa tiềm tàng từ những món nợ ngoài tầm kiểm soát từ các doanh nghiệp nhà nước.

Khủng hoảng giáo dục

"Sự thất bại của ngành giáo dục không những kìm hãm sự phát triển của quốc gia mà còn duy trì sự bất công bằng trong xã hội"
Nhóm giáo sư Harvard viết: ”Các quốc gia cạnh tranh trên cơ sở lao động rẻ không thể vượt qua mức thu nhập trung bình thấp. Các quốc gia này phải chật vật để có được một tỉ lệ lợi nhuận mỏng manh trong khi thị trường thế giới ngày càng trở nên tinh vi, thâm dụng vốn và công nghệ hơn.”
Thật vậy, trong suốt những năm gần đây, giới quan sát đang cho rằng lao động giá rẻ hiện tại đang là nguyên nhân khiến Việt Nam phải đối mặt với “bẫy thu nhập trung bình”, khi nền kinh tế bị kìm hãm bởi mức thu nhập thấp của người dân.
Tuy nhiên chất lượng giáo dục đứng vào bậc thấp nhất so với các nước đang phát triển đồng khu vực hiện sẽ không đủ giúp Việt Nam sản sinh ra những lao động chất lượng cao hơn để thay đổi điều ấy.
“Số lượng, chất lượng giảng viên hết sức hạn chế và hơn phân nửa sinh viên ra trường tại Việt Nam không được làm đúng ngành đào tạo."
“Một điều đáng ngạc nhiên hơn, đó là tỉ lệ ngân sách dành cho giáo dục trong GDP của Việt Nam là khá cao so với các nước trong khu vực. Vậy tiền đi đâu ? Phải chăng đã bị “nuốt chửng” bởi cơ chế hiện nay ?”
“Dưới hệ thống quản trị hiện tại, các trường đã không có đủ quyền tự chủ để chuyên môn hóa sâu, cạnh tranh trên cơ sở chất lượng phù hợp như cầu thị trường”
“Với một hệ thống quản trị như vậy, đổ thêm tiền vào chỉ là giải pháp tình thế, mà không giải quyết được những vấn đề cơ bản nhất của giáo dục Việt Nam” – Trích dẫn tập tài liệu.

Thiếu công bằng

Tập tài liệu đã chỉ ra thất bại của Chính phủ Việt Nam trong việc duy trì một xã hội công bằng.
Nhóm giáo sư Havard cho rằng, mức độ tiếp cận với nền giáo dục của người giàu nghèo vẫn còn cách rất xa nhau, và sự thất bại của ngành giáo dục không những kìm hãm sự phát triển của quốc gia mà còn duy trì sự bất công bằng trong xã hội.
Tập tài liệu cũng đã nhắm đến những bất công trong vấn đề đất đai.
“Tại Việt Nam, quá trình chuyển đổi đất từ nông nghiệp sang công nghiệp và đô thị đang làm một số người trong đó có các quan chức giàu lên một cách nhanh chóng, trong khi khiến nhiều nông dân trở nên thực sự vô sản.”
Nhóm giáo sư này cũng đã so sánh vấn đề tái tổ chức đất nông nghiệp giữa Việt Nam với hai nước phát triển bậc nhất trong khu vực là Hàn Quốc và Đài Loan:
“Trong quá trình tổ chức lại đất nông nghiệp ở hai nước này, nông dân có thể bán lại đất của mình khi họ muốn với giá công bằng chứ không bị cưỡng bức phải tái định cư và nhận tiền đền bù thấp hơn giá trị thực”
Hai vụ bạo động tại Văn Giang và Tiên Lãng gần tại Việt Nam đã chứng minh sự phớt lờ của chính phủ Việt Nam trước những lời cảnh báo này, đồng thời cho thấy thực trạng bất công rõ rệt có xu hướng tăng cao giữa người nông dân và người giàu trong đó có các nhóm đặc quyền.

Cải cách cần thiết  

Giới quan sát nói chọn thành công hay không là hoàn toàn tùy vào các nhà lãnh đạo Việt Nam
Các giáo sư Harvard đã chỉ ra sáu lĩnh vực chính sách mà Việt Nam cần cải cách, dựa theo sự thành công của các nước Đông Á:
Giáo dục: Cần công khai các ngân sách nhà nước dành cho giáo dục để tránh lãng phí và kém hiệu quả. Tiến độ thực hiện cải cách giáo dục đại học phải được thúc đẩy nhằm tận dụng lợi ích của đầu tư nước ngoài.
Cơ sở hạ tầng: Cần yêu cầu EVN chấm dứt ngay hoạt động đầu cơ, không nằm trong ngành kinh doanh chính nhằm tập trung vốn và nhân lực vào việc cung cấp năng lượng.
Hội đồng thẩm định đầu tư độc lập cần được đưa ra nhằm tránh các hạng mục đầu tư kém hiệu quả bằng cách sử dụng các ý kiến khách quan.
Minh bạch hóa các qui định về đất đai cần được tiến hành để đảm bảo một thị trường bất động sản công bằng và có tính cạnh tranh.
Các thành phố cần được đầu tư có hiệu quả để phục vụ cho mục đích dân sinh.
Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp: Phân bổ nguồn lực giữa khu vực nhà nước và dân doanh dựa vào hiệu quả trong khả năng sử dụng, đồng thời kết quả kiểm toán của tất cả các công ty phải được thực hiện bởi những cơ quan kiểm toán độc lập.
"Sáu mảng chính cần cải cách: Giáo dục, Cơ sở hạ tầng, Năng lực cạnh tranh doanh nghiệp, Hệ thống tài chính, Hiệu lực của Nhà Nước, Công bằng"
Hệ thống tài chính: Giảm lạm phát bằng cách nâng cao chất lượng quản lí vĩ mô và tăng cường hiệu quả đầu tư công.
Biến ngân hàng Nhà Nước Việt Nam thành một ngân hàng độc lập về mặt tài chính, nhân sự, công cụ và mục tiêu.
Hiệu lực của Nhà Nước: Loại bỏ những chính sách hoang đường không có khả năng thực hiện và hệ thống tuyển dụng nhân sự dựa vào thâm niên, lòng trung thành và xuất thân hiện nay để tuyển dụng người tài.
Khuyến khích tính phê phán trong nội bộ chính phủ và sự giám sát từ bên ngoài qua báo chí.
Theo đuổi định hướng cải cách một cách quyết liệt, nhằm tránh những sai lầm của Đông Nam Á, tận dụng cơ hội hiên tại và đáp ứng kỳ vọng của nhân dân về sự phát triển đất nước.
Công bằng: Cải thiện chất lượng giáo dục, y tế, khả năng sở hữu nhà cho người dân thành thị để tạo một xã hội công bằng thực sự.
Trợ cấp cho hoạt động đào tạo nghề để giúp người dân đứng vững trước các biến động thị trường.
Tiếp tục nâng cấp cơ sở hạ tầng nông thôn để tăng chất lượng sinh sống của đại bộ phận người dân Việt Nam cũng nhu tăng năng suất và giá trị cho sản phẩm nông nghiệp.