Thoát vị đĩa đệm
Cột sống con người thường do tổng cộng 32-34 đốt sống tạo thành, chia thành 5 đoạn bao gồm:
Đoạn ngực gồm 12 đốt sống ngực: được kí hiệu từ T1 cho đến T12 (T là chữ viết tắt của từ: Thoracic), đoạn này mỏm gai dài đi chếch xuống dưới, mỏm ngang có diện khớp với đầu xương sườn để tạo thành khớp sống sườn
Đoạn thắt lưng gồm 5 đốt sống thắt lưng: được kí hiệu từ L1 cho đến L5 (L là chữ viết tắt của từ: Lumbar). Đoạn này có thân đốt sống to, rộng ngang, cuống đốt sống dày, mỏm gai hình chữ nhật
Đoạn cùng gồm 5 đốt sống cùng: được kí hiệu từ S1 cho đến S5, các đốt xương hợp nhất với nhau tạo thành xương cùng (S là chữ viết tắt của từ: Sacrum), nơi với xương chậu bởi hai khớp cùng chậu
Đoạn cụt gồm từ 3 – 5) đốt, các đốt xương hợp nhất với nhau tạo thành xương cụt hình tam giác
I Giới thiệu
Thoát vị đĩa đệm là tình trạng đĩa đệm bị lồi ra ngoài do bị các đốt sống chèn ép, lúc này phần đĩa đệm lồi lại tiếp tục chèn ép lên các dây thần kinh tủy sống gây ra tình trạng đau nhức.
Bên cạnh đó, dựa vào cấu trúc đĩa đệm mô tả bên trên, các bạn cũng có thể hiểu thoát vị đĩa đệm là tình trạng lớp nhân nhầy đĩa đệm ở giữa các đốt sống bị đè nén dẫn tới rách lớp bao đĩa đệm gây tràn đĩa đệm ra ngoài.
Thoát vị đĩa đệm cột sống thắt lưng là bệnh xảy ra do đĩa đệm cột sống thắt lưng gây đè ép vào rễ dây thần kinh gây đau nhức ở vùng thắt lưng và đau lan xuống chân.
Còn đối với thoát vị cột sống cổ, gây đau nhức vùng cổ, vai gáy và có khi xuất hiện tình trạng tê tay nếu rễ dây thần kinh cánh tay bị chèn ép.
1.1 Nguyên nhân gây thoát vị đĩa đệm
Theo thống kê cho thấy, khoảng 17% dân số Việt Nam mắc các bệnh lý liên quan đến xương khớp, trong đó bệnh thoát vị đĩa đệm chiếm 21,3%. Vậy nguyên nhân nào khiến người bệnh mắc phải bệnh thoát vị đĩa đệm?
Có rất nhiều nguyên nhân gây bệnh thoát vị đĩa đệm cụ thể như sau:
- Sai tư thế: mang vác nặng khi vận động
hoặc vận động sai
tư thế sẽ tạo áp lực mạnh lên các đốt sống gây thoát vị đĩa đệm.
- Ngồi nhiều, ít vận động: ngồi nhiều sẽ khiến khí huyết bị dồn ứ,
thiếu máu dẫn đến các đĩa đệm lâu dần gây xơ hóa và khiến đĩa đệm bị tổn thương.
- Thoái hoá cột sống: cột sống bị thoái hóa sẽ xuất hiện các tổn thương, chúng khiến các màng xương dễ làm rách các bao nhân đệm gây thoát vị đĩa đệm.
- Chấn thương cột sống: những tác động mạnh của
ngoại lực sẽ khiến
bao nhân đệm dễ bị rách và thương tổn dẫn đến
thoát vị.
- Di truyền: không phải ai
cũng biết
thoát vị đĩa đệm cũng có tính di truyền.
Các dấu hiệu và triệu chứng thường gặp của bệnh thoát vị đĩa đệm như sau:
+ Bệnh thoát vị đĩa đệm cột sống cổ: Người bệnh thường có các biểu hiện đau dọc vùng sau gáy. Cơn đau mỏi có thể lan rộng ra hai cánh tay. Trong một số trường hợp bệnh nhân có dấu hiệu tê bì dọc theo cánh tay hoặc tê bì bàn tay, ngón tay và đốt ngón tay. Hoặc cũng có trường hợp, người bệnh thoát vị cột sống cổ gặp phải biểu hiện cơn đau bốc lên đỉnh đầu, gây hoa mắt, chóng mặt và đau tức hốc mắt,…
+ Bệnh thoát vị đĩa đệm cột sống thắt lưng: người bệnh sẽ có dấu hiệu đau ngang vùng thắt lưng và đau liên sườn. Cơn đau chạy dọc theo sợi dây thần kinh kéo xuống dưới đùi rồi đến bắp chân, nặng hơn cơn đau có thể lan đến bàn chân và ngón chân, đốt ngón chân,… Những cơn đau rút có thể xảy ra bất chợt khi bệnh nhân cúi, ngửa hoặc khi ngồi lâu.
# Tê hoặc ngứa râm ran
Chúng ta có thể bắt gặp triệu chứng tê và ngứa râm ran như kiến bò hay kim chích ở bệnh nhân bị thoát vị đĩa đệm.
# Yếu cơ : Cơ bắp sẽ giúp cơ thể duy trì sự vận động, vì thế khi cơ bắp bị suy yếu sẽ khiến cơ thể dễ mất thăng bằng, giảm khả năng cầm nắm đồ vật.
Đây là hiện tượng thường gặp ở những ai bị bệnh thoát vị đĩa đệm, bởi cơ bắp được phục vụ bởi các sợi dây thần kinh. Điều này có nghĩa, các sợi dây này bị ảnh hưởng do bệnh sẽ có xu hướng suy yếu và kéo theo khả năng hoạt động của cơ bắp cũng yếu dần.
1.3 Biến chứng của bệnh thoát vị đĩa đệm
Khi bị thoát vị đĩa đệm nếu không được điều trị có thể dẫn đến tổn thương dây thần kinh vĩnh viễn và gây ra nhiều biến chứng nguy hiểm khác. Một vài biến chứng của bệnh thoát vị đĩa đệm như:
# Một vài biến chứng trầm trọng hơn: Người bệnh sẽ bị cơn đau nhức do bệnh gây ra hành hạ, thậm chí cơn đau có thể tăng lên mức độ cao hơn khiến bệnh nhân không thể hoạt động như thường ngày. Do rối loạn chức năng vận động, không những thế còn có thể gây liệt 2 chân.
Biến chứng nghiêm trọng của thoát vị đĩa đệm có thể gây teo cơ, bại liệt
# Rối loạn chức năng ruột hay do bàng quang bị ảnh hưởng
Khi tủy sống không mở rộng vào phần bên dưới ống tủy sống, lúc này ở phần tủy sống thắt lưng sẽ tách thành các chùm rễ dây thần kinh dài như đuôi ngựa (cauda equina). Bệnh thoát vị đĩa đệm sẽ khiến các dây thần kinh này bị nén lại dẫn tới cơ thể mất kiểm soát ruột và bàng quang gây khó tiểu.
# Rối loạn cảm giác: Phần đĩa đệm bị lồi ra chèn lên dây thần kinh gây mất cảm giác ở các chi nhất là ở phía sau chân.
Bệnh thoát vị đĩa đệm được chia làm 4 giai đoạn:
Giai đoạn 1: Đĩa đệm bắt đầu biến dạng nhưng vòng bao xơ chưa rách. Người bệnh có thể thỉnh thoảng bị tê tay, tê chân, không đau nhức nên hầu hết không ai phát hiện mình đang mắc bệnh.
Giai đoạn 2: Vòng xơ rách một phần, nhân nhầy bắt đầu thoát ra ngay chỗ vòng xơ bị suy yếu, đĩa đệm phình to, tuy nhiên cơn đau vẫn chưa rõ ràng.
Giai đoạn 3: Vòng xơ rách toàn phần, nhân nhầy lồi ra ngoài và chèn ép rễ thần kinh. Đa số khi đến giai đoạn này, người bệnh mới bắt đầu điều trị khi đã trải qua sự hành hạ của các cơn đau.
Giai đoạn 4: Đây là giai đoạn nguy hiểm nhất. Tình trạng chèn ép rễ thần kinh diễn ra lâu ngày gây biến chứng nguy hiểm. Cơn đau nhức dữ dội và dai dẳng ảnh hưởng nghiêm trọng đến sức khỏe, tâm lý người bệnh.
Bệnh thoát vị đĩa đệm có nhiều biểu hiện khác nhau và các biểu hiện này còn phụ thuộc vào mức độ bệnh, vị trí thoát vị đĩa đệm hay thể thoát vị. Hầu hết mọi trường hợp bị thoát vị đĩa đệm, thoát vị cột sống thắt lưng và cổ là hai trường hợp phổ biến, rất hay gặp nhất ở người bệnh.
II Điều trị : Thoát vị đĩa đệm có nhiều phương pháp điều trị, từ phương pháp điều trị bảo tồn (nội khoa) đến phương pháp điều trị phẫu thuật (ngoại khoa)
2.1 Cách điều trị thoát vị đĩa đệm
Đây là phương pháp phổ biến, chiếm 70-80% trong các liệu trình điều trị, thường được áp dụng ở giai đoạn bao xơ đĩa đệm chưa bị rách (phồng lồi đĩa đệm). Điều trị nội khoa có tỷ lệ thành công lên tới 95% nếu điều trị đúng cách, đúng chỉ định.
2.1.1 Điều trị thoát vị đĩa đệm nội khoa
Thuốc tây giúp giảm nhanh các triệu chứng của bệnh thoát vị đĩa đệm từ mức độ nhẹ, mới khởi phát hoặc trung bình. Một số loại thuốc trị thoát vị đĩa đệm, được bác sĩ chỉ định dùng như sau:
+ Thuốc chữa thoát vị đĩa đệm không kê toa:
- Thuốc giảm đau không kê toa: Các loại thuốc giảm đau sẽ được bác sĩ chỉ định dùng nếu trường hợp bệnh của bạn ở mức độ nhẹ. Cụ thể như naproxen (Aleve và một vài loại khác) hoặc ibuprofen (Motrin IB,
Advil).
- Acetaminophen: Thuốc có tác dụng
giảm đau nhanh cho các triệu chứng đau nhức tại vùng xương khớp bị thoát vị.
+ Thuốc chữa thoát vị kê toa:
- Thuốc chống gây nghiện: Bác sĩ có thể kê đơn
cho bạn sử dụng các loại
thuốc như codeine hoặc cũng có thể kết hợp với oxycodone-acetaminophen
(OxyContin và Percocet), nếu trường hợp bệnh của bạn nặng và thuốc không kê đơn không có tác dụng.
Thuốc này chỉ được sử dụng trong khoảng
thời gian ngắn, bởi
thuốc có gây tác dụng phụ như buồn nôn, táo bón, buồn nôn,…
- Thuốc chống co giật: Các loại
thuốc này được thiết kế để kiểm soát các cơn co
giật do bệnh gây ra một cách hiệu quả. Bên cạnh đó, các thuốc còn điều trị bệnh đau dây thần kinh tọa liên quan đến
thoát vị đĩa đệm.
Điều trị đau thần kinh có liên quan tới biến chứng thần kinh ngoại biên ở bệnh nhân đái tháo đường.
Điều trị đau thần kinh sau zona.Liệu pháp bổ trợ cho bệnh nhân người lớn có cơn động kinh khởi phát một phần. Điều trị đau xơ cơ. Điều trị đau thần kinh liên quan tới chấn thương tủy sống.
Liều lượng - Cách dùng
Cách dùng Pregabalin được uống không phụ thuộc vào bữa ăn. Không nên ngừng thuốc đột ngột.
Liều dùng Đau thần kinh có liên quan tới biến chứng thần kinh ngoại biên ở bệnh nhân đái tháo đường
Liều tối đa được khuyến cáo là 100mg x 3 lần/ ngày (300mg/ ngày) ở những bệnh nhân có độ thanh thải creatinin ít nhất 60mL / phút. Bắt đầu dùng thuốc 50mg x 3 lần/ ngày (150mg/ ngày). Liều có thể tăng đến 300mg/ ngày trong vòng 1 tuần dựa trên hiệu quả của thuốc và khả năng dung nạp của cơ thể. Vì Pregabalin được thải trừ chủ yếu qua thận, cần điều chỉnh liều ở bệnh nhân có chức năng thận giảm. Liều trên 300mg / ngày không được khuyến cáo.
Đau thần kinh sau zona
Liều khuyến cáo là 75-150mg x 2 lần/ ngày, hoặc 50-100mg x 3 lần/ ngày (150-300mg/ ngày) ở những bệnh nhân có độ thanh thải creatinin ít nhất 60mL / phút. Bắt đầu dùng thuốc ở liều 75mg x 2 lần/ ngày, hoặc 50mg x 3 lần/ ngày (150mg/ ngày). Liều có thể tăng đến 300mg/ ngày trong vòng 1 tuần dựa trên hiệu quả và khả năng dung nạp. Vì Pregabalin được thải trừ chủ yếu qua thận, cần điều chỉnh liều ở bệnh nhân có chức năng thận giảm. Nếu bệnh nhân không giảm đau sau 2-4 tuần điều trị với liều 300mg/ ngày và có thể chịu được liều cao hơn, có thể tăng liều lên 300mg x 2 lần/ ngày, hoặc 200mg x 3 lần/ ngày (600mg/ ngày).
Điều trị bổ trợ cho người lớn có cơn động kinh khởi phát một phần
Liều Pregabalin 150-600mg/ ngày đã được chứng minh là có hiệu quả như một liệu pháp bổ trợ trong điều trị động kinh khởi phát một phần ở người lớn. Hiệu quả và tác dụng phụ của Pregabalin đã được chứng minh là có liên quan đến liều. Nên chia tổng liều hàng ngày làm 2-3 lần dùng. Tổng liều hàng ngày nên bắt đầu ở mức không lớn hơn 150mg/ ngày (75mg x 2 lần/ ngày, hoặc 50mg x 3 lần/ ngày). Dựa trên phản ứng của từng bệnh nhân và khả năng dung nạp, liều có thể được tăng đến liều tối đa 600mg/ ngày. Vì Pregabalin được thải trừ chủ yếu qua thận, cần điều chỉnh liều ở bệnh nhân có chức năng thận giảm.
Đau xơ cơ Liều khuyến cáo của Pregabalin cho đau xơ cơ là 300-450mg/ ngày. Bắt đầu dùng thuốc ở liều 75mg x 2 lần/ ngày (150mg/ ngày). Liều có thể tăng lên 150mg x 2 lần/ ngày (300mg/ ngày) trong vòng 1 tuần dựa trên hiệu quả và khả năng dung nạp. Những bệnh nhân không đạt hiệu quả điều trị với liều 300mg/ ngày có thể được tăng liều đến 225mg x 2 lần/ ngày (450mg/ ngày). Liều trên 450mg/ ngày không được khuyến cáo. Vì Pregabalin được thải trừ chủ yếu qua thận, cần điều chỉnh liều ở bệnh nhân có chức năng thận giảm.
Đau thần kinh kết hợp với chấn thương tủy sống
Khoảng liều khuyến cáo của Pregabalin là 150-600mg/ ngày. Liều khởi đầu khuyến cáo là 75mg x 2 lần/ ngày (150mg/ ngày). Liều có thể tăng lên 150mg x 2 lần/ ngày (300mg/ ngày) trong vòng 1 tuần dựa trên hiệu quả và khả năng dung nạp. Những bệnh nhân không đạt hiệu quả điều trị sau 2-3 tuần với liều 150mg x 2 lần/ ngày và chịu được liều Pregabalin cao hơn có thể tăng liều đến 300mg x 2 lần/ ngày. Vì Pregabalin được thải trừ chủ yếu qua thận, cần điều chỉnh liều ở bệnh nhân có chức năng thận giảm.
Làm gì khi dùng quá liều?
Nếu nạn nhân hôn mê hoặc không thở được, cần gọi cấp cứu ngay lập tức.
Làm gì nếu quên 1 liều?
Nếu bạn quên một liều thuốc, hãy dùng càng sớm càng tốt. Tuy nhiên, nếu gần với liều kế tiếp, hãy bỏ qua liều đã quên và dùng liều kế tiếp vào thời điểm như kế hoạch. Lưu ý rằng không nên dùng gấp đôi liều đã quy định.
Chống chỉ định: Mẫn cảm với bất cứ thành phần nào của thuốc
Tương tác thuốc: Thuốc cảm lạnh hoặc dị ứng, thuốc an thần, thuốc giảm đau có chất gây mê, thuốc ngủ, thuốc giãn cơ, thuốc trầm cảm hoặc lo âu có thể tăng tác dụng phụ gây chóng mặt hoặc buồn ngủ của Pregabalin.
Báo cho bác sĩ về tất cả các loại thuốc khác sử dụng, đặc biệt là: Rosiglitazone (Avandia, Avandamet, Avandaryl), thuốc tim, huyết áp như benazepril (Lotensin), (Vasotec), enalapril lisinopril (Prinivil, Zestril), quinapril (Accupril), ramipril (Altace) và những loại khác.
Tác dụng phụ: Mệt mỏi, hoa mắt, đau đầu, khô miệng, buồn nôn, nôn, táo bón, đầy hơi, thay đổi tâm trạng, có vấn đề về ngôn ngữ, khó tập trung hay chú ý, nhầm lẫn, khó ghi nhớ, hay quên, lo lắng, thiếu sự phối hợp, mất thăng bằng hay đứng không vững, không kiểm soát được chuyển động của một bộ phận cơ thể, co giật cơ bắp, yếu ớt, tăng sự thèm ăn, tăng cân, sưng tay, bàn tay, bàn chân, mắt cá chân hoặc cẳng chân, đau lưng.
Một số tác dụng phụ có thể nghiêm trọng như nhìn mờ, nhìn đôi hoặc các thay đổi khác trong thị lực, nổi mề đay, phát ban, ngứa, rộp da, sưng mắt, mặt, cổ họng, miệng, môi, nướu răng, lưỡi, đầu và cổ, khó thở, thở khò khè, đau cơ đi kèm sốt, tức ngực, Nếu bạn bị tiểu đường, bạn nên biết rằng pregabalin đã gây ra lở loét da ở động vật.
Quan sát da khi dùng pregabalin và nói với bác sĩ nếu có bất cứ vết loét, mẩn đỏ, hay vấn đề nào về da.
Pregabalin có thể gây ra các tác dụng phụ khác. Gọi cho bác sĩ nếu bạn có bất kỳ vấn đề bất thường nào khi dùng thuốc.
Chú ý đề phòng: Bệnh nhân suy thận, đái tháo đường, có bệnh lý tim mạch, có yếu tố có thể thúc đẩy xuất hiện bệnh não, lớn tuổi. Nếu cần, ngừng thuốc từ từ trong tối thiểu 1 tuần.
Trẻ em < 12 tuổi và thiếu niên (12-17 tuổi): độ an toàn và hiệu quả chưa được thiết lập.
Ngừng dùng ngay khi xuất hiện các triệu chứng của phù mạch.
Kiểm soát các dấu hiệu ý định và hành vi tự tử, tình trạng lạm dụng thuốc.
Phụ nữ có thai (không nên sử dụng, trừ khi thật sự cần), cho con bú (không cho con bú trong quá trình điều trị). Khi lái xe, vận hành máy móc
Dạng bào chế:Viên nang cứng Đóng gói:Hộp 3 vỉ x 10 viên
Thành phần: Cytidin-5'-disodium monophosphat 5mg; Uridin-5 '-trisodium triphosphat 3mg
SĐK:VD-24814-16 Nhà sản xuất: Chi nhánh công ty cổ phần dược phẩm OPC tại Bình Dương - Nhà máy dược phẩm OPC - VIỆT NAM
Chỉ định:
Hỗ trợ điều trị các bệnh lý thần kinh ngoại biên có liên quan đến bệnh xương khớp (đau dây thần kinh tọa, viêm rễ thần kinh...), do chuyển hóa (viêm đa dây thần kinh do tiểu đường hay nghiện rượu...), nhiễm herpes zoster, hoặc do lạnh.
Hỗ trợ điều trị đau dây thần kinh mặt, thần kinh sinh ba, thần kinh gian sườn, đau thắt lưng.
Liều lượng - Cách dùng
Người lớn và trẻ em từ 15 tuổi: uống mỗi lần 1 - 2 viên, ngày 2 lần.
Trẻ em từ 7 đến dưới 15 tuổi: uống mỗi lần 1 viên, ngày 2 lần.
Trẻ em từ 4 đến dưới 7 tuổi: uống mỗi lần 1 viên, ngày 1 lần.
Trẻ em dưới 4 tuổi: không dùng do dạng bào chế không phù hợp.
Chống chỉ định: Bệnh nhân bị mẫn cảm với bất kỳ thành phần nào của thuốc.
Chú ý đề phòng: Nếu bị động kinh hoặc co thắt cơ thì nên thận trọng (cần theo dõi điện não đồ).
Phụ nữ có thai và cho con bú cần tham khảo ý kiến của bác sĩ trước khi sử dụng.
Thai kỳ: Phụ nữ có thai và cho con bú không có chống chỉ định nhưng phải tham khảo ý kiến của bác sĩ trước khi sử dụng.
- Thuốc giãn cơ: Thuốc giãn cơ có thể được bác sĩ kê đơn
khi bạn bị thoát vị đĩa đệm gây ảnh hưởng đến co
thắt cơ cột sống.
Tuy nhiên, thuốc cũng có tác dụng
phụ thường gặp đó là gây chóng mặt.
- Steroid đường uống: Thuốc được dùng để giảm đau nhưng
không được sử dụng trong thời
gian dài, bởi tác dụng
phụ có thể gây ảnh hưởng đến sức khỏe.
- Tiêm cortisone (Corticosteroids) ngoài màng cứng trong trường hợp nặng: Đây là thuốc có tác dụng ức chế viêm mạnh được tiêm trực tiếp vào các vùng lân cận dây thần
kinh cột sống. Thuốc giúp làm giảm đau một cách nhanh chóng do hệ thần
kinh bị chèn ép ngay trong lần đầu tiên. Tuy nhiên, thuốc này có thể mất tác dụng với các liều sau
đó. Bác sĩ khuyến cáo chỉ có thể tiêm 3 lần
trong năm và không nên vượt quá liều điều trị.
Cảnh báo nguy cơ: Thuốc tây chỉ có tác dụng giúp giảm nhanh các triệu chứng chứ không điều trị dứt điểm bệnh thoát vị đĩa đệm. Do đó, bệnh có thể tái phát trở lại. Ngoài ra, thuốc có tác dụng phụ nếu sử dụng lâu dài, không đúng liều lượng và cách dùng. Cho nên, người bệnh cần hỏi thăm ý kiến bác sĩ trước khi điều trị.
2.1.2 Chữa thoát vị đĩa đệm bằng vật lý trị liệu
Vật lý trị liệu là phương pháp điều trị thoát vị đĩa đệm mang lại kết quả cao, giúp giảm sự đau đớn xảy ra ở đĩa đệm bị thoát vị, cải thiện khả năng vận động và tính linh hoạt xương khớp cho người bệnh.
Các phương pháp vật lý trị liệu cụ thể như sau:
- Liệu pháp nóng và lạnh: Đây là biện pháp sử dụng
nhiệt để giúp lưu thông máu đến các cơ
quan, hệ xương khớp tốt hơn. Máu với
vai trò là chất
trung gian giúp chữa lành và cung cấp dưỡng chất cần thiết
cho xương khớp, đặc biệt vùng bị thoát vị đĩa đệm. Bên cạnh đó, khác hẳn với liệu pháp nóng, liệu pháp lạnh làm chậm quá trình lưu thông và giúp giảm co
thắt, giảm đau và viêm hiệu quả.
- Massage mô sâu: Nếu chẳng
may bạn bị thoát vị đĩa đệm,
liệu pháp massage mô sâu chính là lựa chọn hoàn hảo
Bởi phương pháp này không chỉ sử dụng áp lực để làm giảm sự co
thắt hay căng cơ mà giúp tăng cường chuyển động tại các khớp bị thoát vị, giúp khớp hoạt động linh
hoạt hơn.
- Kích thích dây thần kinh điện xuyên qua da bằng máy TENs: Phương pháp sử dụng dòng điện để kích thích hệ cơ bắp bằng cách dùng miếng dán điện dán vào các điểm chính trên da. Với dòng điện nhỏ được truyền qua da, giúp kích thích sản sinh hormone endorphin,
giúp giảm đau một cách tự nhiên.
- Lực kéo: Mục đích của biện pháp lực kéo giúp làm giảm sự tác động của lực hấp dẫn lên cột sống,
làm giảm
thoát vị.
Phương pháp Chiropractic: Đây là phương pháp nắn chỉnh xương khớp bị lệch trở về đúng vị trí. Chiropractic thường hiệu quả với các cơn đau ở vùng lưng dưới, nhưng với thoát vị đĩa đệm ở cổ thì phải thận trọng, đề phòng nguy cơ đột quỵ.
Ngoài các liệu pháp nêu trên, bạn có thể áp dụng các bài tập thể dục cho người thoát vị đĩa đệm để kiểm soát và khắc phục bệnh ngay tại nhà.
2.1.3 Can thiệp phẫu thuật
Hầu
hết
các
trường
hợp
thoát vị
đĩa
đệm
không cần
phẫu
thuật.
Tuy nhiên, nếu
các
biện
pháp điều
trị
thoát vị
đĩa
đệm
không dùng
thuốc
và
điều
trị
nội
khoa không giúp cải
thiện
triệu
chứng
trong khoảng
4-6 tuần,
phương
pháp phẫu
thuật
có
thể
được
lựa
chọn.
Điều
trị
ngoại
khoa được chỉ
định
trong những
trường
hợp
như
điều
trị
nội
khoa thất
bại,
gây
chèn ép
rễ
thần
kinh cấp
tính
hay thoát vị
đĩa
đệm
gây
rách
bao xơ.
Các
loại
phẫu
thuật
dành
cho người
bệnh
thoát vị
đĩa
đệm
như
sau:
- Giải phẫu cắt bỏ: Phẫu thuật phổ biến nhất
trong thoát vị đĩa đệm (vùng thắt lưng) đó là giải phẫu
thuật cắt bỏ.
Trong quá trình phẫu
thuật này, phần đĩa đệm gây áp lực,
chèn ép lên dây thần
kinh sẽ bị cắt bỏ một phần hoặc bỏ hoàn toàn, phụ thuộc vào mức độ và vị trí bệnh.
Nếu thoát vị đĩa đệm xuất hiện ở cổ, phẫu
thuật sẽ được thực hiện thông qua mặt trước. Ngoài ra, bác sĩ có thể rạch một vết nhỏ ở lưng,
cổ và dùng công cụ đặc biệt để loại bỏ phần đĩa đệm hư hỏng. Đây được xem như như thủ tục ít xâm lấn và được gọi là microdiskectomy.
- Phẫu thuật đĩa nhân tạo: Với cách này, bạn sẽ được bác sĩ gây mê toàn thân và rạch các vết mổ loại bỏ đĩa hư và thay bằng đĩa đệm
nhân tạo được làm từ kim
loại hoặc nhựa.
Sau khi phẫu thuật, các bạn cần ở lại viện vài ngày để được bác sĩ theo dõi. Nếu vấn đề đĩa đệm của bạn nằm ở lưng,
bác sĩ sẽ rạch một vết mổ và sử dụng một đĩa đơn để
thay thế. Biện pháp này không thích hợp
cho người bệnh bị loãng xương hoặc thoái hóa khớp.
- Phẫu thuật nội soi: Đây là kỹ thuật xâm lấn ít cắt xẻ và xâm nhập vào cơ thể. Với thủ thuật này, bệnh
nhân ít đau đớn hơn, các vết rạch
nhỏ, thời gian nằm viện ngắn và khả năng phục hồi
nhanh.
Phẫu thuật ngoại khoa cũng có nhiều cách: mổ mở hoặc phẫu thuật ít xâm lấn. Với mổ mở thì chi phí thấp nhưng đường mổ lớn gây tổn thương giải phẫu lớn, nguy cơ mất nhiều máu, nhiễm trùng sau mổ, nguy cơ mất vững cuộc sống… Phương pháp mở ống sống (laminectomy) hoặc giải nén cột sống sau. Bác sĩ thực hiện một đường rạch trên lưng hoặc cổ để cắt bỏ Lamina (một phần của vòng khung xương bao phủ tủy sống) giúp mở rộng ống sống, giải phóng áp lực lên tủy sống cắt bỏ gai xương gây chèn ép các rễ thần kinh. Rủi ro của phẫu thuật laminectomy là có thể làm tổn thương dây thần kinh cột sống, đau lưng dai dẳng, rò rỉ dịch não tủy…
Còn phẫu thuật ít xâm lấn như lấy nhân thoát vị đĩa đệm qua da hay qua hệ thống ống nong, sử dụng sóng cao tần tái tạo nhân đĩa đệm… thì có ưu điểm là vết mổ nhỏ hơn, thời gian nằm viện ngắn hơn nhưng chi phí khá lớn và có chỉ định chặt chẽ (lựa chọn bệnh nhân chính xác), phải có trang thiết bị chuyên dụng, phẫu thuật viên chuyên sâu…
Vi phẫu: Cắt bỏ là loại phẫu thuật được sử dụng phổ biến nhất trong điều trị thoát vị đĩa đệm. Trong điều kiện đầy đủ các trang thiết bị hiện đại như màng tăng sáng C-arm, kính vi phẫu… sau gây mê, bác sĩ phẫu thuật sẽ tạo một vết rạch nhỏ và sử dụng các dụng cụ đặc biệt để loại bỏ phần đĩa đệm gây áp lực lên rễ thần kinh, thậm chí có thể lấy cả đĩa đệm bị hư hại ra ngoài. Thủ thuật cải tiến, ít xâm lấn này có thể được thực hiện trên các bệnh nhân ngoại trú.
Nội soi: Phẫu thuật nội soi chữa thoát vị đĩa đệm là một trong những tiến bộ quan trọng của y học. Chỉ định này dành cho những bệnh nhân bị chèn ép thần kinh cấp tính do thoát vị đĩa đệm, điều trị nội khoa thất bại, thoát vị di trú… Bằng việc mở một đường nhỏ khoảng 2,5cm trên da, bác sĩ sẽ đưa hệ thống ống nội soi và dụng cụ phẫu thuật vào tiếp cận cột sống và thực hiện việc giải phóng áp lực cho dây thần kinh, tủy sống. Ngoài phương pháp gây mê, người bệnh cũng có thể được gây tê cục bộ khi mổ nội soi.
Hợp nhất cột sống: Sau khi phẫu thuật cắt bỏ đĩa đệm hoặc phẫu thuật cắt đốt sống, bác sĩ có thể kết hợp với thủ thuật hợp nhất hai bên đĩa đệm lại với nhau để cố định vĩnh viễn cột sống của người bệnh. Phương pháp này còn được gọi là hợp nhất tủy sống. Việc hợp nhất hai đốt sống sẽ ngăn xương di chuyển và giúp người bệnh không còn cảm thấy đau đớn.
Người bệnh sẽ được gây mê toàn thân để hợp nhất hai hoặc nhiều đốt sống lại với nhau. Bác sĩ cũng có thể dùng vít và thanh kim loại hoặc nhựa được thiết kế riêng để hỗ trợ giữ vững cột sống. Sau hợp nhất cột sống, người bệnh cần phải nằm viện một vài ngày.
Thay đĩa đệm nhân tạo: Phẫu thuật này thường được chỉ định để điều trị thoát vị một đĩa đệm ở lưng dưới, trải qua khoảng 6 tháng điều trị các phương pháp bảo tồn nhưng không đạt được kết quả khả quan. Nếu người bệnh bị viêm khớp, loãng xương hoặc có nhiều đĩa đệm cùng bị thoái hóa, bác sĩ sẽ không chọn giải pháp này.
Để chuẩn bị thay đĩa đệm nhân tạo, người bệnh sẽ được gây mê toàn thân. Bác sĩ phẫu thuật sẽ tiến hành vết rạch ở bụng. Qua kính vi phẫu, bác sĩ sẽ nới rộng khoảng cách giữa hai đốt sống, thay đĩa đệm bị hư bằng đĩa nhân tạo có chất liệu nhựa hoặc kim loại. Sau thay đĩa đệm, người bệnh sẽ được lưu lại bệnh viện vài ngày để bác sĩ theo dõi và hướng dẫn các bài tập vật lý trị liệu.
Sau điều trị thoát vị đĩa đệm bằng phương pháp phẫu thuật, các chuyên gia Trung tâm Chấn thương chỉnh hình khuyên bạn trao đổi ngay với bác sĩ nếu có các biểu hiện như:
• Các triệu chứng đã có tiếp tục chuyển biến xấu hơn.
• Gặp khó khăn khi đứng hoặc đi lại.
• Mất khả năng kiểm soát ruột hoặc bàng quang.
Cảnh báo nguy cơ:
Tất cả các loại phẫu thuật xâm lấn hoặc xâm lấn tối thiểu đều có chung một nguy cơ đó là nhiễm trùng, chảy máu và dễ bị tổn thương dây thần kinh. Ngoài ra, phẫu thuật chỉ giúp phục hồi chức năng của bệnh chứ không có tác dụng chữa trị dứt điểm. Do đó, người bệnh cần tìm hiểu kỹ trước khi tiến hành lựa chọn cách trị thoát vị đĩa đệm.
Thuốc chữa thoát vị đĩa đệm theo Đông Y
Cách chữa thoát vị đĩa đệm bằng đông y đang được nhiều người bệnh ưu tiên sử dụng, bởi thuốc có nhiều ưu điểm nổi bật. Các bài thuốc đông y không những giúp giảm nhanh các biểu hiện đau do đĩa đệm gây ra mà còn giúp nâng cao khả năng hồi phục. Đặc biệt, thuốc sử dụng từ các loại thảo mộc tự nhiên nên khá an toàn, không gây tác dụng phụ cho người sử dụng khi điều trị trong thời gian dài.
Bên cạnh đó, thuốc đông y tác động vào can thận yếu giúp hỗ trợ chức năng gan, thận hoạt động tốt, bồi bổ khí huyết, tăng khả năng tái tạo sụn và xương khớp. Đồng thời, đông y còn kết hợp các phương pháp trị liệu (không dùng thuốc) như châm cứu, bấm huyệt, giúp tăng công dụng điều trị thoát vị đĩa đệm, nhờ tác động vào các huyệt ở cổ. Khi đó, giúp khí huyết lưu thông tốt và giúp giãn cơ, tiêu viêm, cột sống cổ được thư giãn, giúp các đĩa đệm bị lêch (trượt) quay lại vị trí sinh lý ban đầu của nó.
Thuốc trị thoát vị đĩa đệm theo Đông y không chỉ mang lại hiệu quả cao mà còn khá an toàn với người bệnh
Nói chung, thuốc đông y điều trị thoát vị đĩa đệm khá hiệu quả nhưng thuốc hơi chậm trong việc phát huy công dụng chữa trị. Do đó, người bệnh cần kiên trì sử dụng trong thời gian dài mới mong được kết quả tốt. Hiện tại, có một số vị thuốc đông y như Hoạt Huyết Phục Cốt Hoàn (nghiên cứu và cho ra đời bởi Hội đồng khoa học Trung tâm Nghiên Cứu và Ứng dụng Thuốc Dân Tộc), được các chuyên gia đầu ngành đánh giá cao trong việc chữa thoát vị đĩa đệm nói riêng và bệnh xương khớp nói chung.
Hỗ trợ điều trị và phòng bệnh thoát vị đĩa đệm
Đối với bệnh nhân xương khớp nói chung và bệnh nhân thoát vị đĩa đệm nói riêng việc duy trì một chế độ ăn đủ chất dinh dưỡng, tăng cường bổ sung các thực phẩm giàu canxi, vitamin, các loại khoáng chất và ăn uống đúng cách để tránh tăng cân là điều rất cần thiết cho quá trình điều trị bệnh. Cụ thể, bệnh nhân thoát vị đĩa đệm nên:
- Bổ sung thêm cá hồi, cà ngừ, tôm, cua đồng… vào thực đơn mỗi ngày để tăng lượng acid béo, omega-3 và canxi cho cơ thể
- Hạn chế các loại thực phẩm giàu chất đạm,
chất béo để hạn chế sự đào thải
canxi qua thận
- Gia tăng dùng nước từ xương để bổ
sung glucosamine và chondroitin. Đây là những hợp chất tự nhiên có tác dụng
giúp sụn chắc khỏe
- Người bệnh nên ăn nhiều
rau củ tốt cho hệ xương khớp như: nấm hương, cà rốt, mộc nhĩ,… hoặc những
thực phẩm giàu vitamin A và E bởi đây là những
loại củ cung cấp các dưỡng chất cần thiết
cho xương và ngăn ngừa sự lão hóa xương.
- Bổ sung thêm sữa đậu nành, các loại ngũ cốc có nhiều
vitamin, khoáng chất và canxi để tăng tuổi thọ cho
xương khớp
- Cải thiện tư thế làm việc để tránh các cơn đau do thoát vị đĩa đệm gây nên.
III. Phòng ngừa
Hầu hết các vấn đề có liên quan đến đĩa đệm thoát vị sẽ tự khỏi hoặc chuyển biến tích cực khi được điều trị. Nhưng trong một số trường hợp vẫn có thể tái phát.
Để bảo vệ cột sống và ngăn ngừa nguy cơ thoát vị các đĩa đệm khác, bạn nên chú ý các biện pháp phòng ngừa sau khi điều trị:
• Luôn ngồi và đứng thẳng.
• Nếu phải đứng lâu, hãy gác một chân lên vật nào đó để giảm áp lực cho lưng.
• Tránh nâng vật nặng quá 2,5kg.
• Nếu nâng vật nặng, hãy ngồi xổm rồi từ từ nâng lên, tránh uốn cong vùng thắt lưng.
• Duy trì cân nặng ổn định để không gây áp lực cho cột sống.
• Tránh hút thuốc vì thuốc lá có thể gây ra xơ cứng động mạch, làm hỏng các đĩa đệm.
• Xây dựng chế độ dinh dưỡng hợp lý, bổ sung thực phẩm tốt cho xương.
• Vận động điều độ theo sự hướng dẫn của bác sĩ chuyên khoa.
Mayo Clinic Overview
Herniated disk
A herniated disk refers to a problem with one of the rubbery cushions (disks) that sit between the bones (vertebrae) that stack to make your spine.
A spinal disk has a soft, jellylike center (nucleus) encased in a tougher, rubbery exterior (annulus). Sometimes called a slipped disk or a ruptured disk, a herniated disk occurs when some of the nucleus pushes out through a tear in the annulus.
A herniated disk, which can occur in any part of the spine, most often occurs in the lower back. Depending on where the herniated disk is, it can result in pain, numbness, or weakness in an arm or leg.
Many people have no symptoms from a herniated disk. For people who do have symptoms, the symptoms tend to improve over time. Surgery is usually not necessary to relieve the problem.
Diagnosis
During the physical exam, your doctor will check your back for tenderness. You might be asked to lie flat and move your legs into various positions to help determine the cause of your pain.
Your doctor may also perform a neurological exam to check your:
Reflexes
Muscle strength
Walking ability
Ability to feel light touches, pinpricks or vibration
In most cases of herniated disk, a physical exam and a medical history are all that's needed for a diagnosis. If your doctor suspects another condition or needs to see which nerves are affected, he or she may order one or more of the following tests.
Imaging tests
X-rays. Plain X-rays don't detect herniated disks, but they can rule out other causes of back pain, such as an infection, tumor, spinal alignment issues or a broken bone.
CT scan. A CT scanner takes a series of X-rays from different directions and then combines them to create cross-sectional images of the spinal column and the structures around it.
MRI. Radio waves and a strong magnetic field are used to create images of the body's internal structures. This test can be used to confirm the location of the herniated disk and to see which nerves are affected.
Myelogram. A dye is injected into the spinal fluid before a CT scan is taken. This test can show pressure on the spinal cord or nerves due to multiple herniated disks or other conditions.
Nerve tests
Electromyograms and nerve conduction studies measure how well electrical impulses are moving along nerve tissue. This can help pinpoint the location of nerve damage.
Nerve conduction study. This test measures electrical nerve impulses and functioning in the muscles and nerves through electrodes placed on the skin. The study measures the electrical impulses in nerve signals when a small current passes through the nerve.
Electromyography (EMG). During an EMG, a doctor inserts a needle electrode through the skin into various muscles. The test evaluates the electrical activity of muscles when contracted and when at rest.
Treatment
Conservative treatment — mainly modifying activities to avoid movement that causes pain and taking pain medication — relieves symptoms in most people within a few days or weeks.
Medications
Nonprescription pain medications. If your pain is mild to moderate, your doctor might recommend pain medication available without a prescription, such as acetaminophen (Tylenol, others) ibuprofen (Advil, Motrin IB, others) or naproxen sodium (Aleve).
Neuropathic drugs. These drugs affect nerve impulses to decrease the pain. They include gabapentin (Gralise, Horizant, Neurontin), pregabalin (Lyrica), duloxetine (Cymbalta, Drizalma Sprinkle), or venlafaxine (Effexor XR).
Muscle relaxers. You might be prescribed these if you have muscle spasms. Sedation and dizziness are common side effects.
Opioids. Because of the side effects of opioids and the potential for addiction, many doctors hesitate to prescribe them for disk herniation. If other medications don't relieve your pain, your doctor might consider short-term use of opioids, such as codeine or an oxycodone-acetaminophen combination (Percocet, Oxycet). Sedation, nausea, confusion and constipation are possible side effects from these drugs.
Cortisone injections. If your pain doesn't improve with oral medications, your doctor might recommend a corticosteroid that can be injected into the area around the spinal nerves. Spinal imaging can help guide the needle.
Therapy
Your doctor might suggest physical therapy to help with your pain. Physical therapists can show you positions and exercises designed to minimize the pain of a herniated disk.
Surgery
Diskectomy
Diskectomy Open pop-up dialog box
Few people with herniated disks require surgery. Your doctor might suggest surgery if conservative treatments fail to improve your symptoms after six weeks, especially if you continue to have:
Poorly controlled pain
Numbness or weakness
Difficulty standing or walking
Loss of bladder or bowel control
In nearly all cases, surgeons can remove just the protruding portion of the disk. Rarely, the entire disk must be removed. In these cases, the vertebrae might need to be fused with a bone graft.
To allow the process of bone fusion, which takes months, metal hardware is placed in the spine to provide spinal stability. Rarely, your surgeon might suggest the implantation of an artificial disk.
https://www.mayoclinic.org/diseases-conditions/herniated-disk/symptoms-causes/syc-20354095
NYU Langone Health.
Most people do not need surgery to relieve symptoms of a herniated disc. A few days of rest along with over-the-counter anti-inflammatory medications may be all that’s required to alleviate back pain. If your symptoms continue, however, NYU Langone spine specialists can offer a variety of other nonsurgical treatments, including prescription medication and physical therapy.
Medication
No two people experience a herniated disc in the same way. One person may hardly notice symptoms, whereas another may need medication for serious pain. Doctors at NYU Langone can assess the type of medication you need based on your diagnosis and description of what hurts.
Nonsteroidal Anti-Inflammatory Medications
Some of the pain associated with a herniated disc may be due to inflammation in the nerves and soft tissue surrounding the affected disc. When an inflamed nerve swells, it may push up against the slipped disc. By treating the inflammation with nonsteroidal anti-inflammatory medications, swelling and the resulting pain may go away.
The most common nonsteroidal anti-inflammatory medications are ibuprofen, naproxen, and aspirin. All are available without a prescription, and your doctor can recommend how best to use them. If a herniated disc causes more serious pain that is not relieved by over-the-counter medications, doctors may prescribe a more potent anti-inflammatory.
Muscle Relaxants
If a disc slips from its place between vertebrae and pinches a nerve, the electrical signals that move from the nerve to nearby muscle tissue may be disrupted, leading to painful muscle spasms. Muscle relaxant medications can calm spasms and ease pain, letting you move more easily. Your doctor may prescribe these medications for a week or two. After that, pain caused by muscle spasms often goes away on its own.
Prescription Pain Relievers
If a herniated disc pinches a nerve, the pain can be severe. Over-the-counter medications may work to relieve pain, but if not, your doctor may recommend a brief course of prescription pain relievers. These medications are to be used for a week, at most; they are intended to help you feel better until a muscle relaxant or anti-inflammatory medication starts to work.
Corticosteroids
If other medications do not relieve your back or neck pain, your doctor may recommend corticosteroids taken by mouth. Steroids work to reduce inflammation in the area near the herniated disc, taking pressure off an affected nerve and relieving pain. Available only by prescription, steroids are typically taken for 7 to 10 days, at which time your doctor reassesses your symptoms before recommending additional treatment.
Weight Loss
Being overweight can cause or exacerbate problems associated with the spine because excess weight, especially in the front of the body, may pull the spine’s vertebrae, joints, and discs out of alignment. If you’re overweight and have a herniated disc, this added pull on the spine may lead to nerve damage and increased pain.
Our doctors understand that weight loss is not easy. NYU Langone’s Weight Management Program offers a variety of services that can help you make positive changes, one day at a time.
Physical Therapy
Your orthopedic doctor may work closely with a physiatrist, or physical medicine doctor, to recommend physical therapy. Often, physical therapy relieves pain and prevents further damage to a herniated disc. Our physical therapists at Rusk Rehabilitation and the Spine Center at the NYU Langone Orthopedic Center can recommend a treatment plan based on your daily routine, the location of your pain, and your overall health.
Strengthening the core—the muscles in the back, abdomen, upper thighs, and buttocks—is an important part of therapy to treat symptoms of a herniated disc. If these muscles are weak, the spine bears more weight. This added pressure could cause instability or worsen an existing spine problem. A physical therapist can teach you a series of exercises for strengthening these core muscle groups, which can improve posture, relieve pressure on the nerves affected by a slipped disc, and alleviate pain.
A physical therapist may also recommend complementary techniques designed to improve overall function and make you feel better while you build core muscles. Stretching, massage therapy, and heat and ice therapies can all contribute to a comprehensive treatment plan.
Corticosteroid Injections
Corticosteroid injections are an alternative to oral corticosteroids for herniated disc pain. Most of the time, an injection is recommended only after other nonsurgical treatments have failed to bring relief. Steroids have powerful anti-inflammatory properties and can be injected directly into the epidural space—the fluid-filled area surrounding the spinal cord.
These injections are performed under local anesthesia, and NYU Langone pain management specialists and radiologists use X-ray guidance to make sure the medication is injected precisely. The procedure typically takes less than 30 minutes.
Pain relief from injected steroids may last from a week to a year or even longer. Yet some people find that injections don’t help them. There is no way to gauge the effectiveness of an injection before it is given, though for many people steroids do provide long-lasting relief.
Steroid injections are most effective when used just before the start of physical therapy, allowing strength-building exercises to take place without pain.
Acupuncture
Acupuncture is a therapeutic technique in which doctors insert very thin needles into various points on the surface of the body. By targeting specific points along “meridians” that correspond to the nerve pathways affected by a herniated disc, acupuncture may stimulate healing by increasing blood flow. Acupuncture may also prompt the body to release endorphins, which are natural pain relievers.
Our licensed acupuncturists administer this therapy in a relaxed setting at NYU Langone. Acupuncture needles are left in place for 20 to 40 minutes. For optimal results, doctors may recommend several acupuncture sessions.
Our Research and Education in Herniated Disc in Adults
Learn more about our research and professional education opportunities.
Orthopedic Surgery Research
Orthopedic Surgery Training
Musculoskeletal Research Center
https://nyulangone.org/conditions/herniated-disc-in-adults/treatments/nonsurgical-treatments-for-herniated-disc
Surgery for Herniated Disc
If nonsurgical treatments are not effective in relieving pain caused by a herniated disc, in particular if you experience numbness, tingling, or weakness in your arms or legs for more than six weeks, your doctor may discuss surgery. At NYU Langone, your surgical team may include an orthopedic surgeon or a neurosurgeon in addition to radiologists and anesthesiologists who specialize in the spine.
This team of spine experts collaborates to determine the most effective and least invasive approach to spine surgery based on the severity and location of the herniated disc. The goal of surgery is to remove some or all of the damaged disc and stabilize the spine.
All of these operations are performed under general anesthesia.
Discectomy
Discectomy is the most common surgical treatment for a herniated disc. It involves removal of the injured part of the disc, relieving pressure on the affected nerve. This may be an open procedure, allowing surgeons direct access to the disc through an incision, or a microdiscectomy, allowing surgeons access to the disc through smaller incisions and use of tiny surgical instruments. Either technique may be used to remove a herniated disc fragment in the lower spine or neck.
Cervical Discectomy
Your surgeon may perform discectomy on the cervical spine—the vertebrae of the neck—using an anterior approach, in which the herniated disc is accessed through the front of the neck, or a posterior approach, in which it is accessed from the back of the neck.
If a herniated disc in the neck compresses nearby nerves but not the spinal cord, surgeons may use a posterior approach. In this procedure, your surgeon makes an incision in the back of the neck and removes a small portion of the vertebra to access the disc space. This is called a laminotomy or foraminotomy. Your surgeon then removes the herniated disc fragment, relieving pressure on the affected nerves.
If the herniated disc compresses nerves and the spinal cord, your surgeon may use an anterior approach. In this procedure, a surgeon makes an incision in the front of the neck to access the disc space. He or she may remove a portion of the vertebra in order to remove the herniated disc and relieve pressure on the nerves and spinal cord. After the disc has been removed, your surgeon fuses the two vertebrae surrounding the disc space to stabilize the cervical spine. This is called a spinal fusion.
Lumbar Discectomy
In lumbar discectomy, which is performed to relieve a herniated disc in the lumbar spine, or the vertebrae in the lower back, surgeons make a small incision and use powerful microscopes and other tools to magnify their view of the space around the disc and the surrounding bones and nerves. Surgeons may need to remove a small piece of the bone covering the spinal canal in order to access the herniated disc fragment. This procedure is called a hemilaminotomy.
Surgeons then carefully remove the injured section of the disc, decompressing the nerve. The incision is closed with stitches.
Most people can return home on the day of surgery. If laminotomy—a procedure to remove part of a vertebra—or spinal fusion is performed in the lumbar spine in addition to discectomy, surgery may take longer and require that you stay in the hospital for one or two days for observation as you heal.
Recovery from Discectomy
Most people can walk within hours of discectomy. An NYU Langone pain management specialist makes sure you have the medications you need to remain comfortable while you recover in the hospital and at home. It may take four to six weeks for you to return to all of your activities, but surgery often provides almost immediate relief from pain that radiated through the arms or legs.
Artificial Disc Replacement
Increasingly, surgeons recommend artificial disc replacement as an alternative to spinal fusion for younger people who have cervical disc herniation. An artificial disc is a prosthetic “spacer” inserted in place of the removed herniated disc. This spacer rests between two vertebrae, preserving spinal flexibility and stability. No screws or plates are needed to keep it in place. In younger people, a cervical disc replacement may provide better long-term results and fewer complications than fusion.
To perform artificial disc replacement, your surgeon makes an incision above the affected area of the spine and may remove part of the bone covering the spinal canal in order to access the disc space. A surgeon uses small surgical tools to remove the entire herniated disc, insert the artificial disc into the disc space, and close the incision with stitches.
Doctors typically recommend an overnight hospital stay for observation.
Recovery from Artificial Disc Replacement
Many people are out of bed and walking within 24 hours of artificial disc replacement. In the weeks after surgery, you may wear a back or neck brace to provide additional support. A pain management specialist can work with you to customize your medications, depending on how much pain you experience. After four weeks of limited activity, many people resume their everyday routines. It may take a few months for the spine to fully heal.
Spinal Fusion
If a disc has slipped to a large extent, or if the surrounding vertebrae and joints can no longer support that part of the spine, a spinal fusion with discectomy may be performed. Fusion in combination with discectomy is more often required on the neck than on the lower back.
In this procedure, a surgeon removes the disc and the herniated disc fragment and then permanently joins the vertebrae above and below the disc space, eliminating movement between them and stabilizing the lumbar or cervical spine. This can alleviate pain by eliminating contact between the slipped disc and the nearby nerve, as well as by preventing the vertebrae from moving in a way that irritates the spinal cord or nerves.
Recovery from Spinal Fusion
After a spinal fusion, most people spend one or more days recovering in the hospital. Doctors and nurses ensure the incision is healing properly, and pain management specialists are available 24 hours a day to make sure you’re comfortable. Many people are able to walk on the same day of surgery, though this depends on age, the extent of surgery, and the severity of postoperative pain.
After going home from the hospital, you may wear a back or neck brace for a few weeks to provide additional stability while the spinal fusion heals. During this time, you can gradually begin to move and walk more. The timeline for returning to work depends on how much activity is required in your job. People who work in an office often return sooner than those whose jobs require physical labor. Those in more strenuous occupations might not return for three months or longer.
Recovery & Support for Herniated Disc
At NYU Langone, physicians and therapists who specialize in the spine can tailor a recovery plan to the treatment you received and your needs and goals. They work together to provide recovery and support services, including physical therapy, pain management, and mind–body care.
Physical Therapy After Surgery
Physical therapy is an important part of full recovery from any back surgery. At NYU Langone’s Rusk Rehabilitation, our therapists work closely with you to create a plan for returning to your usual activities and preventing further spine damage. They can also help you manage pain after surgery through gentle stretches and exercises.
Many people can stand or walk on the same day of surgery, but everyone is different. In the hours after surgery, a rehabilitation doctor may visit you to discuss how you feel and how much physical activity you’re able to do.
As you heal in the first few weeks after surgery, a physical therapist can help you increase mobility and teach you exercises for increasing strength in the abdomen, thighs, and buttocks. These core muscle groups support the spine and act as a built-in brace. The stronger they are, the less pressure is put on the vertebrae and joints affected by the herniated disc.
At NYU Langone, physical therapy is a part of any long-term recovery plan for herniated disc surgery. In order to recover fully and obtain good results from your surgery, the exercises taught by a therapist should become a regular part of your exercise routine.
Nonsurgical Recovery
At NYU Langone, physical therapy is also prescribed for those who haven’t had surgery. Many people find that core strengthening can take pressure off the spine and that improved muscle strength and posture reduces painful contact between a herniated disc and nerve root.
Physical therapy may be recommended in combination with anti-inflammatory medications, muscle relaxants, or pain medication, and it can enhance the pain-relieving effects of a steroid injection. After several weeks, physical therapy may provide long-term pain relief and improve flexibility and restore function without additional treatment.
Mind–Body Wellness
In addition to physical rehabilitation, NYU Langone offers a variety of services that can improve your sense of well-being and positively affect your overall health. Massage therapy, acupuncture, meditation, and other wellness services can enhance the effects of physical therapy and speed recovery time.
Research shows that certain lifestyle factors, such as maintaining a healthy weight or quitting or cutting down on smoking, can enhance recovery from surgery. Our doctors and therapists recognize that this can be difficult and offer support every step of the way. Learn more about our Weight Management Program and Tobacco Cessation Programs.
A herniated disc does not have to be a lingering problem. At NYU Langone, our experts understand that back pain can overshadow the best parts of life and work with you to find the right treatment.
Our Research and Education in Herniated Disc in Adults
earn more about our research and professional education opportunities.
Orthopedic Surgery Research
Orthopedic Surgery Training
Musculoskeletal Research Center
Our Research and Education in Herniated Disc in Adults
Learn more about our research and professional education opportunities.
Orthopedic Surgery Research
Orthopedic Surgery Training
Musculoskeletal Research Center
Gabapentin
khác với Pregabalin như thế nào
Pregabalin
và gabapentin thường được coi là phương pháp điều trị đầu tiên cho các hội chứng
đau thần kinh khác nhau, nói chung không phân biệt nguyên nhân.
Để cập nhật
bài viết này, hãy đọc Liều lượng Gabapentin thích hợp cho chứng đau thần kinh tại
đây.
Đau thần
kinh gây ra tỷ lệ mắc bệnh đáng kể ở Hoa Kỳ.
Tỷ lệ mắc bệnh
thần kinh ngoại biên được ước tính vào khoảng 2,4% dân số.1 Trong số 14 triệu
người Mỹ mắc bệnh tiểu đường, khoảng 25% bị bệnh thần kinh tiểu đường đau đớn.
Bất chấp những
tiến bộ trong việc tiêm phòng vắc-xin virus varicella zoster, khoảng 25% bệnh
nhân nhiễm herpes zoster sẽ bị đau thần kinh dai dẳng.2 Hơn 85% bệnh nhân bị
đau thần kinh do bệnh lý thần kinh ngoại biên sẽ cần điều trị bằng thuốc. Thật
không may, có rất ít thử nghiệm trực tiếp so sánh các tác nhân gây đau thần
kinh, vì vậy việc lựa chọn phương án tốt nhất có thể khó khăn.
Pregabalin
và gabapentin thường được coi là phương pháp điều trị đầu tiên cho các hội chứng
đau thần kinh khác nhau, thường không phân biệt nguyên nhân.1 Do các sản phẩm rất
khác nhau nên bài viết này so sánh dược động học (PK) và dược lực học (PD) của
pregabalin với các công thức gabapentin khác nhau, và cũng bao gồm các chế độ
chuyển đổi.
Dược động học
của pregabalin và gabapentin
Mặc dù cơ chế
tác dụng chính xác vẫn chưa rõ ràng, nhưng hiệu quả của thuốc trong điều trị
đau thần kinh có liên quan đến khả năng liên kết với các kênh canxi phụ thuộc
điện áp trong hệ thần kinh trung ương (CNS), đặc biệt là với protein
alpha-2-delta. Sự gắn kết này làm giảm sự giải phóng chất dẫn truyền thần kinh
trong hệ thần kinh trung ương do giảm dòng canxi đi qua các kênh bị kiểm soát.3
Gabapentin
được chỉ định là liệu pháp bổ trợ cho các cơn động kinh cục bộ và đau dây thần
kinh sau herpes. Pregabalin được chỉ định cho các công dụng tương tự như
gabapentin, cộng với việc kiểm soát chứng đau cơ xơ hóa và đau thần kinh liên
quan đến bệnh tiểu đường, đặc biệt là bệnh lý thần kinh do tiểu đường.5
Nhìn chung,
đặc tính dược động học của 2 loại thuốc này có phần giống nhau nhưng chúng cũng
có một số khác biệt đáng kể.
Ví dụ, cả
hai loại thuốc đều có cấu trúc tương tự như axit amin leucine. Do đó, cả hai đều
có thể trải qua quá trình vận chuyển thuận lợi qua màng tế bào thông qua hệ thống
vận chuyển axit L-amino.3 Đây là hình thức hấp thu chính của gabapentin và
pregabalin, ngoại trừ tiền chất gabapentin giải phóng kéo dài sẽ được thảo luận
sau.
Tuy nhiên,
pregabalin có thể có hệ thống hấp thu bổ sung hoặc được vận chuyển tốt hơn
gabapentin vì nó gần như được hấp thu hoàn toàn, trong khi gabapentin thì
không. Ngoài ra, sự hấp thu của gabapentin bị giới hạn ở ruột non, trong khi
pregabalin được hấp thu qua ruột non và kéo dài đến đại tràng lên.
Gabapentin
được hấp thu chậm hơn và thay đổi nhiều hơn, đạt nồng độ đỉnh trong huyết tương
khoảng 3 giờ sau khi dùng thuốc. Pregabalin được hấp thu nhanh, tốc độ hấp thu
tối đa gấp 3 lần gabapentin. Nó đạt nồng độ cao nhất trong máu trong vòng một
giờ sau khi uống.
Sự hấp thu
gabapentin có tính bão hòa, dẫn đến đặc tính dược động học không tuyến tính.
Khi liều gabapentin tăng lên, diện tích dưới đường cong (AUC) không theo tỷ lệ
tương ứng. Không giống như gabapentin, sự hấp thu của pregabalin không bão hòa
và thuốc có đặc tính dược động học tuyến tính.
Sinh khả dụng
của gabapentin generic trong công thức viên nén và viên nang tương đương với
thuốc có nhãn hiệu Neurontin là khoảng 80% ở liều thấp hơn như 100 mg mỗi 8 giờ,
nhưng chỉ có 27% khả dụng sinh học ở liều 1600 mg mỗi 8 giờ.3,4 Điều này khác
biệt. rất nhiều so với pregabalin, chất có sinh khả dụng cao hơn 90% với liều từ
75 mg đến 900 mg mỗi ngày chia làm nhiều lần.3
Sinh khả dụng
của Gabapentin đối với nhóm bệnh nhân dự kiến cũng khác nhau hơn so với sinh khả
dụng của pregabalin. Sự khác biệt giữa các bệnh nhân được cho là từ 10% đến 15%
với pregabalin và 20% đến 30% với gabapentin.3
Cuối cùng,
thức ăn làm tăng AUC của gabapentin khoảng 10% mà không thay đổi về thời gian đạt
đến nồng độ tối đa (tmax). Ngược lại, AUC của pregabalin không bị ảnh hưởng bởi
thức ăn, mặc dù sự hấp thu chậm hơn.3
Sự phân bố của
gabapentin và pregabalin rất giống nhau. Cả hai tác nhân đều không bị ràng buộc
nhiều với bất kỳ protein huyết tương nào, làm giảm khả năng tương tác thuốc do
liên kết với protein. Cả hai đều có độ hòa tan trong nước cao và thể tích phân
bố của mỗi loại là tương tự nhau (lần lượt là 0,8 L/kg và 0,5 L/kg đối với
gabapentin và pregabalin).3
Tương tác
thuốc-thuốc khó xảy ra đối với cả pregabalin và gabapentin. Cả pregabalin và
gabapentin đều không bị ảnh hưởng bởi tương tác thuốc cytochrome (CYP), vì cả
hai loại thuốc này đều không được chuyển hóa bởi các enzym CYP. Cả hai đều trải
qua quá trình trao đổi chất ở mức độ không đáng kể (<1%).
Bài tiết qua
thận là phương pháp chính để loại bỏ cả hai loại thuốc khỏi cơ thể. Về mặt lý
thuyết, các chất làm giảm nhu động ruột non có thể làm tăng sự hấp thu
gabapentin vì nó không được hấp thu hoàn toàn. Tuy nhiên, vì pregabalin được hấp
thu hơn 90% nên sự hấp thu của nó không bị ảnh hưởng bởi những thay đổi trong
nhu động ruột non.3
công thức
Gabapentin
Gabapentin
cũng có 2 dạng phóng thích kéo dài: viên nén (Gralise) và tiền chất lưu giữ
trong dạ dày, gabapentin enacarbil (Horizant).
Cả hai đều
có dược động học khác nhau và không thể thay thế được với các công thức tiêu
chuẩn, công thức gốc là Neurontin. Tác dụng phụ của các công thức mới hơn này
tương tự như các công thức tiêu chuẩn.6,7
Gralise được
chỉ định điều trị chứng đau dây thần kinh sau herpes và dùng với liều duy trì
1800 mg mỗi ngày một lần. AUC của 1800 mg Gralise thấp hơn một chút so với 1800
mg của công thức tiêu chuẩn. Ngoài ra, nồng độ tối đa trung bình (Cmax) của
Gralise cao hơn một chút so với 1800 mg dạng tiêu chuẩn và nồng độ tối thiểu
(Cmin) thấp hơn một chút. Cuối cùng, Tmax được tăng lên ở dạng phóng thích kéo
dài.
Mặc dù thức
ăn không ảnh hưởng rõ rệt đến AUC của các dạng gabapentin tiêu chuẩn, nhưng nên
dùng Gralise cùng với thức ăn vì sinh khả dụng tăng lên rất nhiều (33% đến
118%, tùy thuộc vào hàm lượng chất béo trong bữa ăn).6
Horizant là
tiền chất của gabapentin được chỉ định điều trị chứng đau dây thần kinh sau
herpes và hội chứng chân không yên. Liều duy trì khuyến cáo là 600 mg hai lần một
ngày. Không nên dùng liều lớn hơn 1200 mg mỗi ngày vì tác dụng phụ tăng lên mà
không tăng hiệu quả tương ứng.7
Sinh khả dụng
của gabapentin enacarbil là khoảng 75%, được cải thiện phần nào so với công thức
tiêu chuẩn. Nó được hấp thu qua ruột non thông qua chất vận chuyển
monocarboxylate liên kết với proton (MCT-1).
Không giống
như công thức ban đầu, sự hấp thu của gabapentin enacarbil không bị bão hòa ở
liều cao, vì MCT-1 được biểu hiện ở mức độ cao trong đường ruột. Thuốc trải qua
quá trình thủy phân gần như hoàn toàn ở bước đầu tiên thành gabapentin bởi các
carboxylesterase không đặc hiệu, chủ yếu ở tế bào ruột, cũng như ở gan ở mức độ
thấp hơn.
Tiêu thụ rượu
làm tăng sự giải phóng gabapentin enacarbil từ viên nén giải phóng kéo dài. Vì
vậy, nên tránh uống rượu khi dùng Horizant do tăng nguy cơ tác dụng phụ.7
Giống như
các công thức tiêu chuẩn của gabapentin, Gralise và Horizant không được chuyển
hóa ở mức độ đáng kể trong quá trình chuyển hóa pha I và chúng không phải là chất
nền hay chất ức chế p-glycoprotein. Tất cả các dạng gabapentin phải được điều
chỉnh trong trường hợp rối loạn chức năng thận, tương tự như các công thức chuẩn.6,7
Một đánh giá
cho thấy các công thức phóng thích kéo dài này có hiệu quả tương tự như công thức
tiêu chuẩn và chúng cũng có thể có ít tác dụng phụ hơn.8
Cả
pregabalin và gabapentin đều được dung nạp tốt. Chóng mặt và buồn ngủ là tác dụng
phụ thường gặp nhất ở cả hai loại thuốc (>20% gặp ở gabapentin).3-5 Lú lẫn
và phù ngoại biên cũng đã được báo cáo với gabapentin.4
Với cả hai
loại thuốc, tác dụng phụ phụ thuộc vào liều lượng và có thể hồi phục nếu ngừng
dùng thuốc.3 Không nên ngừng đột ngột bất kỳ dạng gabapentin nào vì có thể xuất
hiện các triệu chứng cai thuốc như lo lắng, mất ngủ, buồn nôn, đau và đổ mồ
hôi. Khi ngừng dùng gabapentin, nên giảm liều ít nhất trong một tuần.
Giống như tất
cả các loại thuốc chống động kinh, có thể tăng nguy cơ có ý định tự tử.4,5
Dược lực học
của pregabalin và gabapentin
Gabapentin
và pregabalin khác nhau về ái lực gắn kết và hiệu lực. Pregabalin có ái lực gắn
kết tăng lên với protein alpha-2-delta và là thuốc giảm đau mạnh hơn trong đau
thần kinh so với gabapentin.3
Một nghiên cứu
đã phát triển mô hình dược động học dân số so sánh pregabalin với gabapentin.9
Các tác giả đã tính toán các giá trị về nồng độ của thuốc sẽ mang lại một nửa
phản ứng dược lý tối đa (EC50) và sử dụng các giá trị này để đánh giá hiệu lực
của 2 loại thuốc.
Dựa trên các
nghiên cứu về gabapentin và pregabalin trong bệnh động kinh, giá trị EC50 của
pregabalin và gabapentin được ước tính lần lượt là khoảng 9,77 mg/mL và 23,9
mg/mL.9 Từ những dữ liệu này, pregabalin được ước tính mạnh hơn khoảng 2,4 lần.
Đối với chứng đau thần kinh, tỷ lệ hiệu lực của pregabalin có thể còn lớn hơn.
Sử dụng các
nghiên cứu về đau dây thần kinh sau herpes, giá trị EC50 của pregabalin và
gabapentin được ước tính lần lượt là khoảng 4,21 mg/mL và 11,7 mg/mL. Dựa trên
những giá trị này, pregabalin được ước tính mạnh hơn gabapentin khoảng 2,8 lần.9
Pregabalin
và gabapentin hơi khác nhau về đường cong phản ứng liều lượng.
Một nghiên cứu
đã phân tích dữ liệu từ các thử nghiệm gabapentin và pregabalin giai đoạn 2 và
tạo ra một mô hình dược lực học.3 Các tác giả nhận thấy rằng ở những bệnh nhân
bị đau dây thần kinh sau herpes, điểm đau trung bình giảm khi liều của cả
gabapentin và pregabalin tăng lên.
Tuy nhiên,
nghiên cứu cũng phát hiện ra tác dụng giảm đau của gabapentin ở mức ổn định ở mức
khoảng 3600 mg/ngày. Ngược lại, tác dụng giảm đau của pregabalin tiếp tục tăng
lên đến liều tối đa 450 mg/ngày.3
Pregabalin
cũng có đường cong đáp ứng liều dốc hơn gabapentin. Dựa trên đường cong phản ứng-liều
được dự đoán trong mô hình này, liều pregabalin 450 mg/ngày tương đương với khoảng
3600 mg gabapentin/ngày.3
Chuyển từ
gabapentin sang pregabalin
Đối với các
bác sĩ lâm sàng muốn chuyển bệnh nhân từ gabapentin sang pregabalin, có một số
nghiên cứu xem xét việc chuyển đổi đó.
Một nghiên cứu
đoàn hệ đã xem xét lợi ích của việc chuyển bệnh nhân bị đau thần kinh do bệnh
lý thần kinh ngoại biên từ gabapentin sang pregabalin.10 Nghiên cứu này theo
dõi những bệnh nhân được chuyển từ gabapentin sang pregabalin và sau đó so sánh
họ với những người vẫn dùng gabapentin. Các tác giả cũng phân loại nhóm
pregabalin sâu hơn thành những người đáp ứng tốt hoặc kém với gabapentin, với
gabapentin dừng sau liều ban đêm và pregabalin bắt đầu vào sáng hôm sau.
Liều lượng
được chuyển đổi bằng thuật toán sau:
Gabapentin
900 mg/ngày → pregabalin 150 mg/ngày
Gabapentin
901 mg/ngày đến 1500 mg/ngày → pregabalin 225 mg/ngày
Gabapentin
1501 mg/ngày 2100 mg/ngày → pregabalin 300 mg/ngày
Gabapentin
2101 mg/ngày 2700 mg/ngày → pregabalin 450 mg/ngày
Gabapentin
>2700 mg/ngày → pregabalin 600 mg/ngày
Sự thay đổi
nhanh chóng này nhìn chung được bệnh nhân dung nạp tốt.
Các tác giả
nhận thấy rằng những người đáp ứng tốt với gabapentin và những người không cho
thấy có thêm lợi ích gì với việc giảm đau khi chuyển sang dùng pregabalin. Bệnh
nhân dùng pregabalin cũng cải thiện khả năng kiểm soát cơn đau so với những người
vẫn dùng gabapentin.
Việc chuyển
sang dùng pregabalin giúp giảm đau được cải thiện và cũng ít tác dụng phụ hơn.
Điều này đặc biệt đúng đối với những bệnh nhân trước đây đã đáp ứng với
gabapentin.
Những bệnh
nhân gặp phải các tác dụng phụ khi dùng gabapentin có nhiều khả năng gặp các
tác dụng phụ khi dùng pregabalin hơn. Những bệnh nhân này cũng có nhiều khả
năng ngừng sử dụng pregabalin hơn những người đáp ứng tốt với cả gabapentin và
pregabalin.10
Một thử nghiệm
nhỏ khác so sánh mức độ giảm đau của gabapentin với pregabalin ở bệnh nhân đau
dây thần kinh sau herpes để xác định chặt chẽ hơn liều lượng tương đương giữa 2
loại thuốc.11
Bệnh nhân được
chuyển từ gabapentin sang pregabalin bằng 1/6 liều gabapentin với tần suất dùng
thuốc không thay đổi. Sau khi chuyển thuốc, bệnh nhân cho biết tác dụng phụ và
giảm đau tương tự, ngoại trừ tỷ lệ phù ngoại biên tăng ở nhóm dùng pregabalin.
Các tác giả
kết luận tác dụng giảm đau của pregabalin gấp khoảng 6 lần so với gabapentin.11
Các nghiên cứu
khác đã xem xét các phương pháp chuyển gabapentin thành pregabalin. Một thử
nghiệm như vậy đã sử dụng các mô hình dược động học dân số để kiểm tra 2 tình
huống có thể xảy ra khi chuyển đổi gabapentin thành pregabalin, sử dụng tỷ lệ
gabapentin thành pregabalin là 6:1.9
Tình huống đầu
tiên liên quan đến việc ngừng dùng gabapentin và bắt đầu sử dụng pregabalin
ngay lập tức ở giai đoạn dùng thuốc theo lịch trình tiếp theo. Lựa chọn khác
bao gồm chuyển đổi dần dần từ gabapentin sang pregabalin.
Trong kịch bản
thứ hai này, liều gabapentin đã giảm 50% và 50% liều pregabalin mong muốn được
dùng đồng thời trong 4 ngày. Sau thời gian này, ngừng sử dụng gabapentin và
tăng pregabalin đến liều mong muốn.
Mô hình này
xem xét việc chuyển bệnh nhân từ gabapentin sang pregabalin với nhiều liều lượng
khác nhau, bao gồm:
Gabapentin
900 mg/ngày → pregabalin 150 mg/ngày
Gabapentin
1800 mg/ngày → pregabalin 300 mg/ngày
Gabapentin
3600 mg/ngày → pregabalin 600 mg/ngày
Cả hai kịch
bản đều diễn ra nhanh chóng và liền mạch, vì vậy các tác giả kết luận rằng một
trong hai kỹ thuật có thể là một phương pháp hiệu quả để chuyển bệnh nhân giữa
các loại thuốc.9
Suy nghĩ cuối
cùng
Mặc dù
pregabalin và gabapentin có đặc điểm dược động học và dược lực học tương tự
nhau nhưng rõ ràng có những khác biệt đáng kể. Nhìn chung, pregabalin có dược động
học dễ dự đoán hơn và nó cũng cho thấy ái lực gắn kết mạnh hơn với thụ thể
đích, hiệu lực tăng lên và đường cong phản ứng-liều dốc hơn trong cơn đau thần
kinh không ổn định so với mức liều khuyến cáo.
Một số
nghiên cứu đã phát hiện ra rằng pregabalin có ít tác dụng phụ hơn và có thể hiệu
quả hơn đối với chứng đau thần kinh so với gabapentin. Một số nghiên cứu xem
xét việc chuyển đổi gabapentin thành pregabalin dự đoán rằng tỷ lệ chuyển đổi
sơ bộ là khoảng 6:1 gabapentin thành pregabalin. Ngoài ra, việc chuyển đổi trực
tiếp từ gabapentin sang pregabalin dường như được dung nạp tốt, khiến việc chuyển
đổi trở nên đơn giản.
Các bác sĩ
lâm sàng nên lưu ý rằng pregabalin có nhiều ưu điểm về dược động học và dược lực
học so với gabapentin và việc chuyển đổi giữa 2 loại thuốc này thường được dung
nạp tốt.
Chức năng tủy sống bình thường trong quá trình khám lâm sàng xác định tốt nhất bằng các phản xạ thần kinh cùng (ví dụ, trương lực cơ trực tràng, phản xạ co thắt cơ hậu môn, phản xạ hành hang), phản xạ gối và gân gót, và sức cơ.
Phình động mạch chủ bụng cần được xem xét ở bất kỳ bệnh nhân cao tuổi nào có đau thắt lưng không rõ tính chất cơ học, ngay cả không có triệu chứng thực thể gợi ý chẩn đoán.
Ở những bệnh nhân đau rễ thần kinh cấp tính, có thể bắt đầu điều trị mà không cần đánh giá sâu rộng để xác định nguyên nhân cụ thể
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét