Thứ Tư, 24 tháng 4, 2013

2013 VN=thay đổi Hiến Pháp:

Chuyên gia về luật hiến pháp trong nước nói với BBC rằng việc đổi tên hiệu quốc gia không quan trọng bằng việc làm sao đảm bảo thực chất cho đất nước được hưởng tự do, dân chủ và các quyền con người thực sự.
Trao đổi với BBC hôm 23/4 từ Hà Nội, Giáo sư Nguyễn Đăng Dung, thuộc Đại học Quốc gia Hà Nội, cho rằng việc để tính từ đi kèm tên nước như hiện nay là 'xã hội chủ nghĩa' có thể không phù hợp vì nó chỉ thể hi trị để như trước vì tương lai quá. Hiến pháp đặt ra vấn đề là phải kéo nó về thực tại, giải quyết những gì đang diễn ra ở cuộc sống chứ không phải giải quyết cái gì ở tương lai, ở thời tương lai.
Ông nói ở một số quốc gia, chế độ chính trị vẫn để là 'Vương quốc' hay 'Quốc vương', một thể chế chính trị rất cũ nhưng ở bên trong, tất cả những gì thể hiện trong đời sống của họ lại đều mang danh một chế độ 'dân chủ, cộng hòa' và ông cho rằng đây là một điều tốt.
Chuyên gia luật nhận xét trên thế giới hiện có rất ít quốc gia đề tên hiệu 'Xã hội chủ nghĩa' và cho rằng tên hiệu của Việt Nam như hiện này 'có một cái gì đó hơi xa' với thực tế của đất nước.
Giáo sư Dung cho rằng đổi tính từ trong quốc hiệu trở lại 'Dân chủ, Cộng hòa' có thể là một phương án có nhiều tiềm năng, phù hợp, đồng thời theo ông sẽ không có vấn đề gì sau khi đổi quốc hiệu về cơ bản nói chung cũng như về mặt thừa kế, tiếp tục, xử lý các hệ lụy về pháp lý hay giao dịch quốc tế nói riêng.
Ông nói: "Hiện nay cũng có một số quan điểm khác, việc đổi tên nước có thay đổi về mặt nội dung hay không.
"Hình thức thay đổi thì nội dung có thay đổi hay không thì người ta cũng lo lắng. Anh thay đổi về mặt hình thức nhưng nội dung không thay đổi thì cũng chẳng có nghĩa lý gì cả".

'Cũng bằng không'



Ông nhấn mạnh: "Ăn nhau vẫn là phải đổi nội dung thể hiện bên trong cuộc sống của xã hội Việt Nam như thế nào, đấy là vấn đề."
"Thế còn... cuộc sống ở bên trong không thể hiện được hình thức ở bên ngoài, nếu không có tự do, không có dân chủ thì cũng bằng không."
Gần đây ý kiến của dư luận và một số học giả trong nước còn cho rằng quốc hiệu cũng thể hiện kỳ vọng về mục tiêu quốc gia hay thể chế hướng tới.
Về hướng đi đổi mới thể chế trong dài hạn của Việt Nam, một nhà nghiên cứu xã hội học trong nước cho rằng nhà nước cần lưu ý các mục tiêu thực chất hơn về công bằng và dân chủ, với trọng tâm ưu tiên đặt vào công bằng xã hội.
Trao đổi với BBC từ Hà Nội, Giáo sư Nguyễn Đình Tấn, từ Học viện Chính trị - Hành chính Quốc gia, nói:
"Công bằng nên đặt trước dân chủ. Dân chủ rất quan trọng, nhưng nếu dân chủ mà không công bằng thì cái dân chủ đó chỉ là lời kêu gọi thôi. Khi có công bằng xã hội, thì khi đó mới có dân chủ, và hai cái đó tương tác với nhau."

"Ăn nhau vẫn là phải đổi nội dung thể hiện bên trong cuộc sống của xã hội Việt Nam như thế nào... Thế còn... nếu không có tự do, không có dân chủ thì cũng bằng không"
GS Nguyễn Đăng Dung

'Quỹ đạo văn minh'

Giáo sư Tấn cho rằng về lâu về dài Việt Nam sẽ hòa nhập với 'quỹ đạo văn minh' quốc tế nhưng từ nay tới đó, quốc gia này sẽ vẫn giữ nguyên thể chế có duy nhất một đảng lãnh đạo là đảng cộng sản Việt Nam.
Ông nói: "Có lẽ trong tương lai xa, rồi thì Việt Nam cũng sẽ đi vào quỹ đạo chung, quỹ đạo bình thường của nền văn minh
"Việt Nam đang đi, nhưng phải đi từ từ, dần dần, Việt Nam là phương Đông, không thể thực hiện những cú sốc được theo kiểu phương Tây.


Về 'mục tiêu phấn đấu' của Việt Nam do Đảng cộng sản đặt ra, trong một trao đổi với BBC gần đây, Đại biểu Quốc hội, sử gia Dương Trung Quốc nêu quan điểm:
"Mục tiêu xây dựng chủ nghĩa xã hội tôi nghĩ vẫn là mục tiêu có thể đặt ra, nhưng nó phải hết sức thực tiễn vì đó là mô hình chưa hề có. Vì thế tôi đề nghị, tôi mong muốn là ta trở lại với chế độ dân chủ, cộng hòa."
Gần đây, truyền thông trong nước phản ánh các ý kiến đặt vấn đề về việc Việt Nam cần sửa đổi tên hiệu của quốc gia ra sao cho phù hợp với tình hình mới nhân dịp nhà nước tổ chức việc lấy ý kiến đóng góp của người dân cho sửa đổi Hiến pháp hiện hành.
Có ý kiến gợi ý rằng đổi lại tên nước là trở lại đúng với Bấmbản chất chế độ, nhưng cũng có ý kiến tin rằng Bấmchưa nên đổi tên trong thời điểm hiện nay và cần cân nhắc toàn cục.
Một blogger là sỹ quan và phóng viên của báo Quân đội Nhân dân còn đặt nghi vấn cho rằng đổi tên nước có thể là ' Bấmmột chiêu' mà một số nhà lập pháp tung ra có ý đồ.
Được biết, trong dự thảo Hiến pháp sửa đổi chính thức mà chính quyền và Ủy ban Dự thảo Sửa đổi Hiến pháp của Quốc hội Việt Nam đưa ra vấn ý người dân hôm 12/4, ở điều 1, phương án 2, nội dung quốc hiệu, có đoạn viết:
“Nước Việt Nam là một nước dân chủ cộng hòa, độc lập, có chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ, bao gồm đất liền, hải đảo, vùng biển và vùng trời. Tên nước là Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.”

"ện một ước muốn còn ở xa trong tương lai.
Ông nói: "Việc chuyển sang 'Việt Nam Dân chủ Cộng hòa' theo đề nghị của một số nơi như Ủy ban Mặt trận Tổ Quốc Việt Nam, hay thậm chí của một số học giả, tôi thấy rằng có thể là tốt hơn bởi vì chính thể phải phù hợp với điều kiện thực tiễn, ở thực tại.
"Chứ chế độ chính
Trong tương lai xa, Việt Nam cũng sẽ đi vào quỹ đạo chung, quỹ đạo bình thường của nền văn minh... VN đang đi, nhưng phải đi từ từ, dần dần, VN là phương Đông, không thể thực hiện những cú sốc "
GS Nguyễn Đình Tấn


Hội thảo Hiến Pháp cho Việt Nam mai sau: Diễn giả luật sư Đào Tăng Dực.

Giải pháp Liên Tôn là giải pháp các tôn giáo liên kết để tạo một tiếng nói chung. Qua đó các tổ chức chính trị, tổ chức dân sự liên kết chung quanh Liên Tôn tiến đến thành lập một Liên Minh Dân Tộc.
Trong tinh thần vận động một hiến pháp mới cho Việt Nam, ngày chủ nhật 5-5-2013 vừa qua Cộng Đồng Người Việt Tự Do tại Victoria Úc và Lực Lượng Dân Tộc Cứu Nguy Tổ Quốc đã tổ chức một cuộc Hội Thảo với chủ đề Hiến pháp Cho Việt Nam Mai Sau. Diễn giả luật sư Đào Tăng Dực, một người luôn tích cực đấu tranh cho tự do dân chủ, người đã có công sọan ra Bản Dự Thảo Hiến Pháp Dân Chủ Hiến Định, Pháp Trị và Đa Nguyên Cho Việt Nam Mai Sau.
 Buổi Hội Thảo diễn ra một không khí vô cùng sôi nổi với chừng 100 người tham dự và trên 10 người cho ý kiến hay đặt câu hỏi thảo luận. Ngòai các phần nghi lễ, phát biểu của chủ tịch Cộng đồng ông Nguyễn văn Bon, của Trưởng Ban Tổ chức Bác sĩ Thái Thị Thu Nguyệt, của diễn giả luật sư Đào Tăng Dực, Bản Dự Thảo gồm 9 Chương, 55 Điều, đã được 4 người thay phiên đọc.
Những ý kiến hay câu hỏi thảo luận có thể được chia thành 4 quan tâm chính (1) Điều 4 Hiến pháp 1992 (2) thủ tục và phương cách tiến hành việc xây dựng một hiến pháp mới (3) nội dung một hiến pháp và (4) các đề tài khác. Bài viết này xin đúc kết các trao đổi trong buổi thảo luận cũng như thêm vào một số nhận xét cá nhân.
Điều 4 Hiến pháp 1992
Hiến pháp Việt Nam chỉ nhằm luật hóa các Nghị Quyết của đảng Cộng sản, mọi quyết định đều xuất phát từ Bộ Chính Trị và nhà cầm quyền cộng sản thi hành. Có hay không có Điều 4 Hiến pháp thì họ vẫn xuống tay đàn áp mọi cuộc đấu tranh dù ôn hòa và bất bạo động.
 Khi cuộc Hội Thảo đang diễn ra thì tại Việt Nam các bạn trẻ bị công an cộng sản ngăn cản, bắt giữ, đánh đập, chỉ vì tham gia các buổi dã ngọan vận đồng cho nhân quyền. Điều khỏan nào trong hiến pháp, trong luật pháp cho phép họ xuống tay đàn áp người dân? Cộng sản phải giải thể không thể là sửa đổi điều này, mục kia với ước mong chế độ sẽ tốt hơn.
 Quan điểm đòi bỏ Điều 4 Hiến pháp cho rằng nếu bỏ được Điều 4 thì cuộc đấu tranh tư tưởng lại bước sang một bước mới là đòi quân đội phải độc lập với chính trị, đòi tách đảng ra khỏi chính phủ và đòi tam quyền phân lập rõ ràng. Còn nếu cộng sản không bỏ Điều 4 thì khuynh hướng dân chủ tòan cầu và đấu tranh tư tưởng nhằm nâng cao ý thức dân chủ của người dân sẽ dẫn đến sự sụp đổ của chế độ cộng sản.
 Như vậy đấu tranh bỏ Điều 4 chỉ là một phương tiện để thực hiện đấu tranh công khai, ôn hòa, bất bạo động, giúp nâng cao ý thức dân chủ, giúp cho người dân bớt sợ, từng bước dấn thân tham gia vào các sinh họat đấu tranh, gia nhập các tổ chức dân sự, tổ chức đấu tranh sẵn sàng chủ động nắm bắt thời cơ. Phương cách này là căn bản của đấu tranh tư tưởng.
 Còn âm thầm đấu tranh bạo động làm cộng sản và gia đình vừa sợ hãi, vừa lo âu, giúp một số cải tà quy chánh hay tìm cách rút lui. Phương cách này làm căn bản tiêu diệt tinh thần đối phương. Số còn lại có thể trở nên hung ác hơn. Có áp bức có đấu tranh. Đấu tranh sẽ dẫn đến cách mạng.
 Như vậy các phương cách đấu tranh chính trị bổ túc cho nhau với cùng một mục đích là giải thể chế độ cộng sản xây dựng một chính thể tự do dân chủ. Sử dụng bất cứ phương cách nào điều cần thiết phải quyết tâm, phải triệt để thì mới đạt được kết quả.
Thủ tục và phương cách tiến hành việc xây dựng một hiến pháp mới
 Có hai phương cách để thiết lập một hiến pháp mới. Cách thứ nhất dân chúng bầu ra một Quốc Hội Lập Hiến. Cách thứ hai là các tôn giáo, các tổ chức chính trị, các tổ chức dân sự liên kết để đề cử một Ủy Ban Sọan thảo Hiến Pháp. Sau đó để có sự đồng thuận và xác định sự chính danh, bản Hiến pháp cần đưa ra trưng cầu dân ý.
 Khi ngừơi dân đứng lên giành lại tự do, một chính phủ lâm thời được thành lập, trường hợp thứ nhất cần được thực thi. Trong trường hợp có những thay đổi quan trọng và triệt để, một chính phủ chuyển tiếp được thành lập sẽ cùng làm việc với các tôn giáo, các tổ chức chính trị, các tổ chức dân sự để quyết định chọn một trong hai phương cách nói trên.
 Trong buổi thảo luận luật sư Đào Tăng Dực nhiều lần cho biết bản dự thảo rất dễ sọan, một luật sư hay người biết chút ít về luật có thể sọan một cách dễ dàng. Còn thủ tục để có một Hiến pháp tự do là thủ tục chính trị đã đề cập bên trên.
Những dân biểu Quốc Hội Lập Hiến hay thành viên của Ủy Ban Lập Hiến phải được chọn lọc, được đề cử hay được bầu ra, từ các tôn giáo, các tổ chức chính trị, các tổ chức dân sự, các nhân sĩ độc lập và từ dân chúng. Các luật gia chỉ trợ giúp kiến thức luật pháp nhằm hòan chỉnh bản hiến pháp.
 Một ý kiến cho rằng bản dự thảo của luật sư Dực không nên gọi là một “dự thảo” mà chỉ nên xem là một tài liệu tham khảo. Nhiều góp ý nhấn mạnh đến Bản Hiến pháp Việt Nam Cộng Hòa 1967, những vị này ít nhiều so sánh giữa 2 bản HPVNCH 1967 và Bản Dự Thảo HP của luật sư Dực, để nêu rõ ưu điểm của Bản Hiến pháp nói trên.
Người viết đã khá quen thuộc với cả hai bản nên tin rằng Luật sư Dực cũng đã lấy Bản Hiến pháp 1967 làm tham khảo chính. Nhưng mỗi cá nhân cùng tham khảo một tài liệu có thể có những đánh giá khác nhau về tài liệu tham khảo này. Như thế mỗi người có thể sọan theo một hướng khác và đương nhiên đưa ra một bản hiến pháp khác, chính vì vậy mới cần cả một quốc hội hay ủy ban sọan thảo và cần được đưa ra trưng cầu dân ý tìm đồng thuận và chính danh.
Nội Dung Một Bản Hiến Pháp
Có thể phân làm hai khuôn mẫu Hiến Pháp: (1) tổng quát và (2) chi tiết. Trong buổi hội thảo các ý kiến đầu tiên đều xoay quanh vấn đề bình đẳng bình quyền. Một Hiến pháp theo khuynh hướng tổng quát chỉ cần nêu: “mọi công dân trên 18 tuổi đều có quyền bầu cử và ứng cử.” Trong khi đó một hiến pháp chi tiết, đưa ra các hạn tuổi khác nhau để được quyền ứng cử vào các chức vụ khác nhau: Tổng Thống, Dân Biểu, Nghị Sĩ và các chức vụ hành chính khác.  
Mỗi điều khỏan Hiến pháp sẽ trở thành những bộ luật. Khi sọan bộ luật bầu cử và ứng cử, Quốc Hội sẽ có thời gian thảo luận chi tiết để luật bầu cử được thực hiện một cách hiệu qủa, nhưng vẫn đảm bảo tính bình đẳng, tính bình quyền và tính hợp hiến. Các Hiến pháp theo khuôn mẫu tổng quát dễ truyền đạt đến tòan dân, dễ được chấp nhận, ít gây tranh cãi, ít phải tu chính và dễ được thông qua trong các cuộc trưng cầu dân ý.
 Bản Dự Thảo hòan tòan không đề cập đến việc trưng cầu dân ý, việc tu chính được trao cho Quốc Hội nên rất nhiều điều khỏan khá chi tiết. Bản Hiến pháp VNCH 1967 là một bản hiến pháp thời chiến nên để có những quyết định nhanh chóng việc tu chính cũng được trao cho Quốc Hội.
Ý kiến khác cho rằng một Hiến pháp cần phải đưa ra viễn kiến vạch kế họach chiến lược quốc gia. Như Điều 11.1 Hiến pháp Việt Nam Cộng Hòa 1967 nêu rõ: “Văn hóa giáo dục phải được đặt vào hàng quốc sách trên căn bản dân tộc, khoa học và nhân bản”. Chính viễn kiến này đã đào tạo một thế hệ tiếp nối tại hải ngọai có học, có hành và luôn đấu tranh cho tự do dân chủ tại quê nhà.
 Có góp ý cho rằng hiến pháp cần nêu rõ quân nhân và quân đội không được tham gia vào chính trị hay phi chính trị quân đội. Điều 23.1 của Hiến pháp VNCH 1967 nêu rõ “Quân Nhân đắc cử vào các chức vụ dân cử, hay tham chánh tại cấp bậc trung ương phải được giải ngũ hay nghỉ giả hạn không lương, tuỳ theo sự lựa chọn của đương sự” và Điều 23.2 nêu rõ “Quân Nhân tại ngũ không được sinh hoạt đảng phái”.
Một ý kiến khác cho rằng hiến pháp thể hiện quyền lực của người dân. Quyền lực này trao cho những người tham chính. Vì vậy Hiến pháp cần nêu rõ việc chế tài tội phản quốc. Điều 38.1 của Hiến pháp VNCH 1967 nêu rõ: “Trong trường hợp can tội phản quốc hay các trọng tội khác, Dân Biểu hay Nghị Sĩ có thể bị Viện sở quan truất quyền.” Còn Điều 85 cho biết “Đặc Biệt Pháp Viện có thẩm quyền truất quyền Tổng Thống, Phó Tổng Thống, Thủ Tướng, các Tổng Bộ Trưởng, các Thẩm Phán Tối Cao Pháp Viện và các Giám Sát Viện trong trường hợp can tội phản quốc và các trọng tội khác.”
 Một ý kiến khác đề nghị xây dựng một mô hình ba tiểu bang Bắc Trung Nam. Diễn giả luật sư Dực cho theo ông cần sự đòan kết quốc gia và cho biết bản dự thảo đã hướng đến việc phân quyền từ trung ương đến địa phương. Thiết nghĩ đây là một đề tài lớn cần nhiều suy nghĩ và thảo luận.
Có câu hỏi nên chấp nhận đảng Cộng sản trong sinh họat chính trị tương lai hay không? Trên thực tế các đảng chính trị đều phải họat động trong khuôn khổ nghị trường và luật pháp. Như thế bất cứ đảng nào lấy bạo lực cách mạng làm phương tiện cướp và nắm chính quyền đều vi phạm hiến pháp. Hiến pháp VNCH 1967 Điều 81.2 ghi rõ : ”Tối Cao Pháp Viện có thẩm quyền phán quyết về việc giải tán một chánh đảng có chủ trương và hành động chống lại chánh thể Cộng Hòa”
Bốn Điều Khỏan về Chánh đảng trong Hiến pháp VNCH 1967.
Người viết xin giới thiệu bạn đọc tòan CHƯƠNG VII: Chính Đảng và Đối Lập, trong một dịp khác người viết sẽ phân tích để thấy rõ tính ưu việt của nền dân chủ non trẻ và thời chiến tại miền Nam trước 30-4-1975.
Điều 99 –
1-    Quốc Gia công nhận chánh đảng giữ vai trò thiết yếu trong chế độ dân chủ;
2-    Chánh đảng được tự do thành lập và hoạt động theo các thể thức và điều kiện luật định.
Điều 100 - Quốc Gia khuyến khích việc tiến tới chế độ lưỡng đảng.
Điều 101 - Quốc Gia công nhận sự định chế hóa đối lập chính trị.
Điều 102 - Một đạo luật sẽ ấn định quy chế chánh đảng và đối lập chính trị.
Các đề tài khác
 Buổi hội thảo còn đưa ra nhiều ý kiến về các tội ác lịch sử của đảng Cộng sản và tội ác của cá nhân theo cộng sản. Các tội ác lịch sử thì đã có các sử gia tra cứu và biên tập để trở thành chính sử. Tội ác cá nhân thì sẽ có pháp luật trừng trị.
Ngày nay những kẻ gây ra tội ác thời Thế chiến thứ II vẫn bị truy lùng và đưa ra tòa án quốc tế. Khi đã nói đến luật pháp thì phải theo nguyên tắc LUẬT BẤT HỒI TỐ. Nghĩa là một chính thể tương lai sẽ không sọan ra luật để xử phạt những cá nhân đã gây ra tội ác trong quá khứ. Chính quyền tương lai sẽ sử dụng các bộ luật hình sự do nhà cầm quyền cộng sản sọan ra để xử những cá nhân đã gây ra tội ác.
 Thí dụ, Cô Nguyễn Hòang Vi và gia đình có thể thưa những công an đã bạo hành cô về các tội như lạm dụng công quyền, khủng bố tinh thần và bạo hành thể xác công dân. Tòa án sẽ sử dụng các bộ luật hình sự hiện đang lưu hành để phán xét vụ kiện. Những kẻ gây tội ác không sớm hồi tâm sớm muộn sẽ sa lưới pháp luật.
Buổi Hội Thảo còn thảo luận về quyền tư hữu, đặt biệt là tư hữu đất đai. Nhiều đất đai thuộc các giáo hội hay tổ chức tôn giáo, thuộc cá nhân đã bị nhà cầm quyền cộng sản cướp và giao cho những các cá nhân khác quản lý. Lẽ đương nhiên một chính phủ tự do phải đề ra một giải pháp công bằng, hợp tình, hợp lý để giảm thiểu nhưng tranh chấp dễ gây bất ổn xã hội.
 Mặc dù thời gian rất giới hạn, phần Hội Thảo đã thâu nhận trên 10 người vừa đưa ra ý kiến, vừa đặt câu hỏi. Đến đây bạn đọc có thể nhận ra hầu hết những ý kiến đều không đồng thuận với diễn giả và bản Dự Thảo Hiến Pháp. Theo người viết đây là điểm vô cùng tích cực mà diễn giả luật sư Đào Tăng Dực đã tạo ra. Đối thọai và thảo luận là phương cách tốt nhất để đi tìm đồng thuận.
Cuối chương trình một vị cao niên đưa ra một ý kiến là Bản Dự Thảo nên được phổ biến trước để bà con đọc trước khi tham dự thì cuộc hội thảo thì sẽ gặt hái nhiều kết quả tốt hơn. Thiết nghĩ nếu mục đích của cuộc Hội Thảo là giúp bà con hiểu rõ phương cách để có được một hiến pháp mới và diễn giả hiểu được sự quan tâm của bà con về một hiến pháp mới thì cuộc thảo luận đã đạt được mục đích đề ra.
 Được phép của Ban Tổ Chức, trước khi cuộc hội thảo bắt đầu người viết đã in và phổ biến Bản Tuyên Bố Chung của 5 Tôn Giáo đến mọi người. Trong buổi Hội Thảo nhiều người cũng đã nhắc đến nỗ lực của các vị lãnh đạo tôn giáo đang liên kết để tạo một tiếng nói chung. Bác sĩ Thái thị Thu Nguyệt, Phó Chủ Tịch Ủy Ban Yểm Trợ Lực Lượng Dân Tộc Cứu Nguy Tổ Quốc Úc châu, ngay trong phần phát biểu và nhiều lần trong buổi thảo luận cũng nhắc đến giải pháp Liên Tôn.
 Giải pháp Liên Tôn là giải pháp các tôn giáo liên kết để tạo một tiếng nói chung. Qua đó các tổ chức chính trị, tổ chức dân sự liên kết chung quanh Liên Tôn tiến đến thành lập một Liên Minh Dân Tộc. Liên Minh này đưa ra một Ủy Ban Sọan Thảo Hiến Pháp, để sọan ra một Dự thảo Hiến Pháp. Dự thảo này sẽ được đưa ra trưng cầu dân ý với sự giám sát quốc tế.
 Giải pháp này cũng là con đường để các đảng viên đảng cộng sản thức tỉnh quay về với chính nghĩa dân tộc. Là giải pháp tối ưu cho dân tộc, tránh được đổ máu và tránh tiếp tục hận thù chia rẽ. Ước mong mọi tổ chức, mọi cá nhân dẹp bỏ khác biệt để liên kết mang tự do dân chủ đến cho dân tộc Việt Nam.
Nguyễn Quang Duy
Melbourne, Úc Đại Lợi
9/5/2013

2013 VN và Niềm tin=Gs Tương Lai

‘Bất mãn chưa từng thấy’?

Cập nhật: 08:23 GMT - thứ tư, 24 tháng 4, 2013
Tình hình kinh tế chính trị Việt Nam đang xấu đi rất nhiều
Nhật báo New York Times hôm thứ Tư ngày 24/4 vừa đăng một bài báo về lòng tin của người dân Việt Nam vào sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản trong tình hình khó khăn hiện nay.
Dưới tiêu đề ‘Những lúc khó khăn cũng là lúc bất đồng và trấn áp công khai nở rộ ở Việt Nam’, nhà báo Thomas Fuller của New York Times đã đưa ra quan sát này trong một lần đi tìm hiểu thực tế mới đây ở thành phố Hồ Chí Minh.
Nhân vật chủ đạo trong bài báo là giáo sư Nguyễn Phước Tương (tức Tương Lai), cựu cố vấn của hai đời thủ tướng Việt Nam.
Ngoài ra ký giả này cũng đã trao đổi với ông Trương Huy San (tức nhà báo Huy Đức), một cựu cố vấn khác của thủ tướng là Tiến sỹ kinh tế Lê Đăng Doanh, cũng như một số nhà quan sát khác để tìm hiểu về tình hình kinh tế chính trị của Việt Nam hiện nay.

‘Không tin Đảng nữa’

“Trên các kệ sách chất đầy các tuyển tập của Marx, Engels và Hồ Chí Minh, dấu ấn của một đời trung thành với Đảng Cộng sản, nhưng ông Nguyễn Phước Tương, 77 tuổi, nói ông không còn tin vào Đảng nữa,” bài báo bắt đầu từ tư gia của GS Tương Lai ở ngoại ô thành phố lớn nhất nước.
“Ông Tương, cũng giống như rất nhiều người khác ở Việt Nam hiện nay, đang lên tiếng phản đối chính quyền mạnh mẽ.”
“Chế độ của chúng tôi là độc tài toàn trị,” ông Tường được dẫn lời nói, “Tôi là người sống trong lòng chế độ – tôi biết tất cả những khiếm khuyết, những sai lầm sự suy thoái của nó.”
"Trong vòng 21 năm sống ở đất nước này tôi chưa bao giờ sự bất mãn với chế độ của trí thức và doanh nhân đến mức độ như hiện nay."
Peter R. Ryder, giám đốc điều hành của Quỹ đầu tư Indochina Capital
“Nếu chế độ này không được sửa đổi thì tự nó sẽ sụp đổ,” ông nói thêm.
Theo Fuller thì Đảng Cộng sản Việt Nam đang đối mặt với sự giận dữ ngày càng tăng của người dân về sự trượt dốc của nền kinh tế và nội bộ Đảng đang bị chia rẽ giữa một bên là những người bảo thủ muốn vẫn duy trì những nguyên tắc soi đường của chủ nghĩa xã hội và sự độc quyền lãnh đạo và một bên là những người kêu gọi một xã hội đa nguyên và chấp nhận hoàn toàn chủ nghĩa tư bản.
Tuy nhiên quan trọng nhất là Đảng đang đối phó với một xã hội thông tin ngày càng rộng mở và khán giả ngày càng tỉnh táo trước các thông tin khi mà có nhiều tin tức và ý kiến khác nhau lan truyền trên mạng làm ảnh hưởng đến sự tuyên truyền của truyền thông Nhà nước.
Bài báo dẫn nhận định của ông Carlyle A. Thayer từ Học viện Quốc phòng Úc, một trong những học giả nước ngoài hàng đầu về Việt Nam, cho rằng giờ đây sự chỉ trích Đảng đã ‘bùng nổ trên toàn xã hội’.
Đây là khác biệt lớn nhất so với các thách thức mà Đảng Cộng sản Việt Nam đã từng trải qua kể từ khi Đảng này thống nhất đất nước 38 năm trước đây như cuộc chiến với Trung Quốc và Campuchia, khủng hoảng tài chính và chia rẽ nội bộ.
Cũng theo quan sát của ông Thayer thì ‘bất đồng nở rộ nhưng đồng thời sự đàn áp cũng gia tăng’.

‘Bi quan sâu sắc’

Kinh tế Việt Nam đang bộc lộ hết tất cả những khiếm khuyết mà thời gian dài không được khắc phục
“Có thêm nhiều người muốn bày tỏ chính kiến phê phán chính phủ của mình hơn trước và những gì họ chỉ trích cũng nghiêm trọng hơn,” ông Trương Huy San (tức nhà báo, blogger Huy Đức – tác giả Bên Thắng Cuộc), nói với New York Times.
Vấn đề đăṭ ra ở đây, theo nhà báo Fuller, là ‘khó mà hiểu được sự bi quan sâu sắc’ của người dân trên đất nước này nếu nhìn vào bề mặt của sự tăng trưởng kinh tế.
Theo bài báo này thì nhiều người cho rằng Việt Nam đang mất phương hướng mặc dù đất nước này có dân số trẻ và làm việc chăm chỉ.
“Trong vòng 21 năm sống ở đất nước này tôi chưa bao giờ sự bất mãn với chế độ của trí thức và doanh nhân đến mức độ như hiện nay,” ông Peter R. Ryder, giám đốc điều hành của Quỹ đầu tư Indochina Capital, được dẫn lời nói.
Tại Diễn đàn Kinh tế Mùa xuân do Ủy ban Kinh tế của Quốc hội tổ chức hồi đầu tháng Tư năm nay, các diễn giả đã ‘tranh nhau nói trước micro’, kinh tế gia Lê Đăng Doanh thuật lại với New York Times.
Ông cho biết nhiều người đã chỉ trích mặc dầu nền kinh tế cần phải được tái cơ cấu sâu rộng nhưng ‘gần như chẳng ai làm gì cả’.
“Đó là sự khủng hoảng lòng tin,” ông Doanh được dẫn lời nói, “Năm nào người ta cũng nghe hứa hẹn là thời gian tới mọi việc sẽ được cải thiện nhưng họ không thấy gì cả,” ông nói.
"Đó là sự khủng hoảng lòng tin. Năm nào người ta cũng nghe hứa hẹn là thời gian tới mọi việc sẽ được cải thiện nhưng họ không thấy gì cả."
Kinh tế gia Lê Đăng Doanh
Bài báo đã nêu đích danh Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng là trung tâm của cơn bão chính trị hiện nay.
“Sự tự tin thái quá và các chương trình đầy tham vọng của ông Dũng lúc đầu giúp ông có người ủng hộ bởi vì ông đã đoạn tuyệt với khuôn mẫu một cán bộ Đảng xơ cứng,” bài báo viết.
Tuy nhiên, sau đó ông làm nhiều người bất mãn với việc giải tán ban cố vấn vốn là động lực phía sau chương trình cải cách kinh tế mà ông Tương Lai là một thành viên.
Bên cạnh đó, chính sách kinh tế mang dấu ấn cá nhân ông Dũng là thúc đẩy thành lập các tập đoàn kinh tế nhà nước theo kiểu các chaebol của Hàn Quốc, đã đem lại hiệu quả ngược.
Điều hành các tập đoàn này những người thân cận với Đảng Cộng sản, những người đã biến các tập đoàn thành nhiều công ty khác nhau mà họ không đủ khả năng điều hành cũng như đầu cơ trên thị trường chứng khoán và bất động sản.
Hai tập đoàn trong số này đã gần như sụp đổ và đang đứng bên bờ vực phá sản.

‘Căng thẳng trong Đảng’

Báo Mỹ viết Đảng Cộng sản ngày càng mất đi sự ủng hộ trong lòng người dân Việt Nam
Ông Nguyễn Phước Tương nói với New York Times rằng những khó khăn của nền kinh tế đã khiến cho căng thẳng trong nội bộ Đảng Cộng sản dâng cao.
Hồi tháng Hai, ông đã tham gia soạn thảo một thư kiến nghị gửi đến lãnh đạo Đảng Nguyễn Phú Trọng để kêu gọi thay đổi Hiến pháp theo hướng đảm bảo quyền lực thuộc về nhân dân. Ông nói đến nay ông chưa nhận được phản hồi gì cả.
Giờ đây ông đang cảm thấy áp lực thời gian, ông cho biết. Căn bệnh ung thư của ông, mặc dù đang thuyên giảm, giống như là sự giải phóng tư tưởng thôi thúc ông phải nói lên điều mà ông cho là sự thật, ông nói.
“Nói cho cùng, Marx là một nhà tư tưởng vĩ đại,” ông nói, “Nhưng nếu như thế giới này chưa từng có Marx thì có lẽ sẽ tốt đẹp hơn.”
Bản điện tử của bài báo này trên trang chủ của New York Times đã nhận được một số ý kiến phản hồi của độc giả.
Một người ký tên là R. Vasquez đến từ tiểu bang New Mexico của Hoa Kỳ bình luận:
“Đảng (Cộng sản Việt Nam) đã cạn nhiệt huyết và ý tưởng. Những người thật sự còn trung thành với lý tưởng cộng sản giờ cũng đã 70, 80 tuổi... Các thế hệ tiếp nối sẽ thấy ngày càng khó mà hài hòa giữa những lý luận của các nhà tư tưởng ở châu Âu vào thế kỷ 19 với nhu cầu và khát vọng của nước Việt Nam trong thế kỷ 21.”
Còn Party State đến từ thành phố Vancouver của Canada thì viết:
“Đảng Cộng sản Việt Nam đã suy đồi cả về tinh thần lẫn đạo đức. Sự mục nát sẽ dẫn đến chỗ Đảng sụp đổ. Vấn đề ở đây là điều gì sẽ xảy ra sau đó? Liệu Việt Nam có trở thành một chế độ độc tài quân sự hay sẽ có một nhân vật như Hun Sen lên nắm quyền? Tương lai, tôi sợ rằng, sẽ còn tồi tệ hơn nhiều so với hiện tại.”

‘Giá đừng phản chiến’

"Nói cho cùng, Marx là một nhà tư tưởng vĩ đại. Nhưng nếu như thế giới này chưa từng có Marx thì có lẽ sẽ tốt đẹp hơn."
GS Tương Lai
Charles ở Slough, Vương quốc Anh, tự vấn phong trào phản đối chiến tranh ở Việt Nam. Độc giả này viết:
“Những người chúng ta đã từng tham gia vào phong trào phản chiến trong những năm 60 và 70 nên treo cổ trong tủi hổ và nên xin lỗi người dân Việt Nam. Với việc ủng hộ phe cộng sản và gây sức ép lên Quốc hội cắt đứt mọi viện trợ cho miền Nam Việt Nam thì chúng ta đã góp phần đảm bảo cho chiến thắng của ông Hồ Chí Minh và Đảng của ông ta.
Lại nữa, hãy thử nghĩ xem nếu không có cuộc cách mạng này thì ngày nay Việt Nam đã tốt hơn như thế nào? Ba mươi năm chiến tranh, số người chết không kể xiết, thiệt hại và đau thương vô cùng lớn – tất cả chỉ để đem đến kết cục là một chế độ kinh tế Marxist không khả thi do một Đảng cộng sản suy đồi và tàn bạo lãnh đạo.
Hãy nghĩ xem giờ này Việt Nam sẽ như thế nào nếu họ trải qua 60 năm thị trường tự do giống như Nhật Bản, Hàn Quốc, Thái Lan và Singapore. Chắc chắn là không hoàn hảo nhưng sẽ tốt hơn nhiều và lại không có chết chóc hay tàn phá.”
Tuy nhiên ý kiến này đã bị một công dân mạng khác có tên là Khang Duong từ Việt Nam phản bác:
“Ông chỉ đọc từ một phía và ông không hiểu gì về Việt Nam cả. Tôi không nghĩ rằng Việt Nam sẽ tốt hơn nếu không làm cách mạng. Đất nước của ông bị nước khác tàn phá, người dân của ông mất hết quyền lực và bị đối xử như súc vật? Miền Nam điêu tàn dưới tay của một kẻ độc tài. Ngô Đình Diệm không phải do người dân Việt Nam mà là người Pháp, người Mỹ đưa lên. Nếu Hồ Chí Minh không làm cách mạng thì cũng sẽ có một cuộc cách mạng khác mà thôi.”

Thứ Năm, 11 tháng 4, 2013

2013 THAM NHUNG


                     Tham nhũng qua “nhóm thân hữu”
50% DN được hỏi đã nói rằng nhóm các DN có quan hệ với quan chức có ảnh hưởng ngày càng mạnh mẽ hơn trong hoạch định chính sách.

Trước thực trạng này, Ủy ban Kiểm tra Trung ương Đảng (UBKTTƯ) đã xây dựng đề tài khoa học “Nghiên cứu mối quan hệ (MQH) không bình thường giữa một bộ phận cán bộ, đảng viên có chức, quyền với doanh nghiệp (DN) để trục lợi: Thực trạng và giải pháp phòng, chống thông qua công tác kiểm tra, giám sát của Đảng”. Đề tài đang được lấy các ý kiến góp ý để hoàn thiện.
Quan hệ với quan chức = sức mạnh DN
UBKTTƯ nhận định: “Trong sản xuất, kinh doanh, ngoài MQH với khách hàng, cổ đông, người lao động…, DN còn phải có một MQH rất quan trọng với hệ thống chính trị các cấp mà thực chất là quan hệ với cán bộ, đảng viên có chức quyền. DN càng lớn thì MQH này càng rộng. Hiện nay, một số DN còn tổ chức một bộ phận trực thuộc giám đốc hoặc HĐQT với chức năng duy nhất là duy trì và mở rộng MQH với chính quyền và cán bộ, đảng viên của chính quyền đó”.
Theo đó, MQH với quan chức trong hệ thống chính trị được nhìn nhận là một lợi thế trong cuộc chạy đua cạnh tranh trên thương trường. “Các DN còn lấy thước đo sự quen biết với số lượng cán bộ có chức vụ quan trọng, những cán bộ liên quan đến những quyết sách về tài chính, đất đai, ngân hàng, dự án… thì càng có vị thế và cơ may giành thắng lợi trong kinh doanh càng nhiều. Đáng lưu ý là MQH này đang nhuốm màu “lợi ích”” - nhóm nghiên cứu của UBKTTƯ nhận xét.


Thi tuyển cán bộ, công khai, minh bạch và dân chủ trong công tác tổ chức là những giải pháp phòng ngừa MQH không bình thường giữa quan chức với DN để trục lợi. Ảnh: HTD
Tuy nhiên, nhóm nghiên cứu cũng cho rằng: Nếu quan chức và DN thực sự muốn tìm MQH với nhau dựa trên lợi ích chung của cộng đồng thì điều đó lại mang sự tích cực. Nó sẽ giúp cho hai bên (chính quyền và DN) hiểu nhau hơn. DN có cơ hội chỉ ra những khiếm khuyết của chính sách qua quá trình thực thi. Cán bộ quản lý nhà nước từ đó kịp thời điều chỉnh những sơ hở trong quản lý. Còn quan chức muốn thực sự thu hút DN về đầu tư tại địa phương thì họ có nhiều thiện chí hỗ trợ, ủng hộ và sẵn lòng tạo điều kiện cho DN phát triển.
Chi phối phát triển kinh tế
UBKTTƯ chỉ ra rằng bản chất của MQH không bình thường giữa quan chức với DN để trục lợi là một dạng tham nhũng đặc biệt dẫn đến “lợi ích nhóm”. Nó có thể chi phối cả nền kinh tế, thậm chí là chính trị. Tác hại của MQH này sẽ làm cản trở quá trình phát triển kinh tế nhanh và bền vững vì nó tạo ra môi trường kinh doanh thiếu lành mạnh, không bình đẳng. MQH này sẽ bóp méo các chính sách của Nhà nước thay vì ban hành để phục vụ đại bộ phận nhân dân thì nó lại quay hướng để phục vụ cho một số ít DN hình thành và phát triển “lợi ích nhóm”.
“Kiểu làm ăn như vậy không sớm thì muộn sẽ hủy hoại môi trường kinh doanh. Nếu chúng ta không cải thiện thì “cỏ dại sẽ mọc lấn hết lúa (“lúa” ở đây được hiểu là các DN kinh doanh đàng hoàng)” - nhóm nghiên cứu nhận định và dẫn chứng bà Virginia Foote - Chủ tịch Hội đồng thương mại Việt-Mỹ đã từng cảnh báo: “Nếu cứ tiếp tục kinh doanh không giống ai như vậy, DN Việt Nam sẽ khó có thể làm ăn toàn cầu”.
Ngoài ra, tác hại của MQH không bình thường còn làm suy yếu sự lãnh đạo của Đảng và sự quản lý của Nhà nước về kinh tế. MQH này sẽ dẫn đến suy thoái tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên. Mặt khác, nó làm mất lòng tin của nhân dân.
Nhiều quan chức có DN vây quanh
Đề tài của nhóm nghiên cứu cũng “điểm mặt”: Hiện nay, các DN đã bắt đầu quan tâm đến nhóm lợi ích trong vận động điều hành chính sách. Đã có dấu hiệu manh nha của “nhóm thân hữu”. Xung quanh một số nhân vật chủ chốt có vai trò quan trọng trong các quyết sách về kinh tế của Nhà nước đã thấp thoáng sự hiện diện của các DN thuộc các loại hình khác nhau.
“Cũng có hiện tượng một nhóm DN nào đó dưới sự bảo trợ của một số cá nhân quan chức đã có điều kiện thuận lợi hơn và có tốc độ tăng trưởng vượt trội. Trong khi đó, những DN khác phải nhờ cậy DN thân tín với quan chức đó. Thậm chí đang có những DN có thể dễ dàng ra vào nhà của một số nhân vật quyền lực ở trung ương và địa phương”.
Theo đó, “nhóm thân hữu” này có quan hệ hai chiều trong việc quan chức dàn xếp để DN nhận được ưu đãi. Ngược lại, DN hoặc là phải đóng góp vào sự phát triển của địa phương để làm nổi bật thành tích của quan chức, hoặc cung cấp cho quan chức các phương tiện có thể leo cao hơn, để lo lót, chạy chọt. Hiện tượng các DN bao cấp cho một số quan chức dưới hình thức cung cấp các dịch vụ VIP như chơi golf, massage, du lịch, du học cho con cái… đã xuất hiện. Những xôn xao về những doanh nhân có quyền lực ngầm trong quan hệ với quan chức không phải là ít.
Nhóm nghiên cứu UBKTTƯ cũng cho hay đang có hiện tượng lợi ích cục bộ ở nhóm cán bộ thoái hóa trong các cơ quan quản lý kinh tế của Nhà nước. Thay vì sử dụng quyền lực nhà nước để giữ trật tự, kỷ cương thì họ lại sử dụng quyền lực của nhóm để ăn chia với DN. Trong khi đó, DN nhà nước có vị trí đặc biệt, vừa độc quyền, vừa quản lý tài sản khổng lồ, vừa tự chủ rộng rãi… lại không đi kèm trách nhiệm giải trình cao nên nhiều DN nhà nước là đầu mối để nhiều quan chức thiết lập các đường dây vụ lợi cho mình.
Biểu hiện dễ thấy nhất là nhiều quan chức tạo ô dù để bổ nhiệm người thân tín của mình vào các vị trí chủ chốt. Đặc biệt, nhiều DN đã chuyển các cổ phần béo bở cho một số quan chức nhưng cho người khác đứng tên, đổi lại là họ được nhận những chế độ, chính sách riêng...
Chống “tư duy nhiệm kỳ” và “hiệu ứng 59”
Nhóm nghiên cứu đưa ra các giải pháp phòng ngừa MQH không bình thường giữa quan chức với DN để trục lợi gồm: Lấy phiếu tín nhiệm quan chức (kể cả tại tổ dân phố); công khai, minh bạch và dân chủ trong công tác tổ chức cán bộ; tăng cường sự giám sát; thi tuyển cán bộ; tăng cường thanh kiểm tra…
Nhưng đáng quan tâm hơn là các biện pháp phát hiện và xử lý quan chức tham nhũng. Theo nhóm nghiên cứu phải xử lý và đề nghị xử lý kịp thời, nghiêm minh những cán bộ, đảng viên thực hiện không nghiêm các quy định của Đảng, Nhà nước và để người thân trong gia đình vi phạm. Đồng thời, xử lý nghiêm cả DN có quan hệ không bình thường với cán bộ, đảng viên có chức quyền. Tịch thu tài sản do MQH không bình thường với DN mà có, kể cả khi người đó đã nghỉ hưu hoặc đã chết. Mặt khác, đảng viên vi phạm tham nhũng chưa đến mức độ xử lý hình sự cũng không được giữ các chức vụ lãnh đạo Đảng, Nhà nước ở các cấp.
Chưa hết, phải ban hành quy định về kiểm tra đối với quan chức chủ trì ở các cấp trước khi kết thúc nhiệm kỳ để chống “tư duy nhiệm kỳ”, “hiệu ứng 59”(59 tuổi, sắp về hưu - PV). Sửa đổi luật hình sự theo hướng coi tham nhũng là giặc nội xâm và bổ sung các hình phạt đối với hành vi chiếm hữu tài sản không kê khai; di chuyển tài sản cho người khác hoặc ra nước ngoài; chiếm hữu tài sản mà không giải thích được nguồn gốc


Tham nhũng nghìn tỉ thời ông Trọng được lôi ra phục vụ Hội nghị Trung ương 7?

10/04/2013
Cố tình “tạo điều kiện” cho doanh nghiệp, làm thất thu thuế của nhà nước hàng nghìn tỉ đồng, được doanh nghiệp lại quả biệt thự triệu đô. Tiêu cực đặc biệt nghiêm trọng diễn ra dưới thời Bí thư Thành ủy Nguyễn Phú Trọng cuối 2004. Các cá nhân liên quan: Phan Văn Khải,Nguyễn Công Tạn, Nguyễn Phú Trọng, Hoàng Văn Nghiên, Vũ Hồng Khanh … Gần 10 năm sau, hàng nghìn biệt thự bị “phanh” lại khi xin cấp sổ đỏ. Các cơ quan Trung ương và Hà Nội đang đau đầu về vụ truy thu hàng nghìn tỉ tại khu đô thị lớn nhất và sang trọng nhất cả nước – CIPUTRA, Phú Thượng, Tây Hồ. Sắp tới Hội nghị TW 7, vụ này lại được  móc ra đặt vào tay Nguyễn Bá Thanh để xem Ban Nội chính hành xử ra sao.
Nhằm giúp doanh nghiệp trốn mức thuế sắp áp dụng từ 1/1/2005, ngày 14/12/2004, Hoàng Văn Nghiên (Chủ tịch Hà Nội), dĩ nhiên được Thành ủy đứng đầu là Bí thư Trọng bật đèn xanh đã ban hành quyết định “ưu tiên” cho CIPUTRA nộp thuế theo mức “đặc cách”. Quyết định do Hoàng Văn Nghiên ban hành đã khiến nhà nước thiệt hại trên 3000 tỉ đồng. Được hưởng siêu lợi nhuận này là nhà đầu tư bất động sản CIPUTRA. Phương pháp ông Nghiên, ông Trọng “tính giúp” cho CIPUTRA đến bây giờ đang gây ra tranh cãi lớn.
Ngay tại Hội nghị toàn quốc về chống thất thu thuế 3/2013 vừa qua, trường hợp CIPUTRA bị bộ Tài chính (dưới sự chỉ đạo của đồng chí X) nêu đích danh là vụ trốn thuế lớn nhất lịch sử Việt Nam và yêu cầu các cơ quan chức năng sớm điều tra, truy cứu trách nhiệm cá nhân kể cả có cán bộ hiện làm rất to.
Dưới sức ép phe phái, vừa qua, Hà Nội buộc phải ép CIPUTRA nộp lại 1400 tỉ đồng trong số hơn 3000 tỉ đã bị cố tình tính sai. Hàng nghìn biệt thự triệu đô không được cấp sổ đỏ bởi đất CIPUTRA thuê có thời hạn 50 năm bị cố tình áp sai thuế một cách nghiêm trọng. Hiện, liên doanh bất động sản kinh doanh khu đô thị CIPUTRA đứng trước bờ vực phá sản. Hàng trăm héc ta đất vàng không sử dụng cả chục năm. Khu mua sắm CIPUTRA Mall (đường Lạc Long Quân) khổng lồ đang bỏ hoang là minh chứng cho sự lãng phí, tiêu cực khủng khiếp dưới thời ông Nguyễn Phú Trọng.
Để dựng bình phong che giấu tiêu cực, hàng chục biệt thự triệu đô đã được biếu không cho các “gia đình chính sách” (lãnh đạo tiền bối – kể cả còn sống và đã chết) như Nguyễn Văn Trân, Trần Duy Hưng … Hà Nội lại đem mảnh đất vàng Võng Thị ngay sát Hồ Tây “hiến” cho Tổng bí thư Nông Đức Mạnh (lúc còn đương chức) làm biệt thự riêng để chỉ đạo Thanh tra CP “làm êm” vụ CIPUTRA. Mảnh đất vàng này đã từng được “cơ cấu’ cho 1 đại tướng lừng danh. Do việc chạy lễ này của Hà Nội mà đại tướng có nguy cơ lâm cảnh vô gia cư vì biệt thự cụ này đang ở bị quy hoạch bảo tồn quần thể Ba Đình.
Hiện, dân tình đang xôn xao rằng đồng chí X ra đòn hiểm thật, cho quân chọc vào hai vụ tiêu cực đất đai (một tại Đà Nẵng, một tại Hà Nội), đều hàng nghìn tỉ và liên quan trực tiếp đến người đứng đầu bộ máy Nội chính, Chống tham nhũng khiến các cơ quan này vừa bày ra đã có nguy cơ chết yểu.

Vinashin:  
Nguyên chủ tịch quốc hội Nguyễn Văn An nói rằng vụ Vinashin "vừa là hậu quả của khủng hoảng kinh tế toàn cầu, vừa có căn nguyên sâu xa bắt nguồn từ lỗi của hệ thống, lỗi từ gốc, từ chủ trương của Ban Chấp hành Trung ương và của Bộ Chính trị xuất phát từ quan điểm rằng: xã hội xã hội chủ nghĩa phải được xây dựng dựa trên ... chế độ công hữu về tư liệu sản xuất chủ yếu. Mô hình này lại xuấ...t phát từ một lý thuyết cực đoan cho rằng: tư hữu về tư liệu sản xuất là nguồn gốc của mọi sự bóc lột...Từ một lý thuyết cực đoan đi tới một mô hình kinh tế không có động lực mà thực tế cuộc sống đã bác bỏ. Chính phủ là người thực thi chủ trương đó của Đảng về mặt nhà nước. Ban Chấp hành Trung ương và Bộ Chính trị có quyền lớn như vậy thì có phải chịu trách nhiệm gì không?."

Cùng chung ý kiến, tổng giám đốc tập đoàn InvestConsult Group Nguyễn Trần Bạt nhận định rằng "một cá nhân dù tài đến mấy, dù "độc ác" đến mấy cũng không có khả năng phá hoại đến 80.000 tỷ trong vòng vài ba năm...và đất nước của chúng ta không có nhiều 80.000 tỷ mà chỉ có độ vài ba chục lần 80.000 tỷ thôi... Chúng ta không có trong hệ thống nhà nước của mình một cơ chế báo động đủ nhạy cảm để có thể ngăn chặn tai họa ở một giai đoạn đầu tiên. Cho nên, dứt khoát phải khẳng định rằng không có lỗi cá nhân tuyệt đối trong sai lầm này, mà đây là một lỗi có chất lượng hệ thống, và lỗi hệ thống ấy chính là thiếu hệ thống báo động về các tai họa tài chính. Hiện tượng Vinashin bộc lộ cho Đảng, Chính phủ, Quốc hội của chúng ta hiểu rằng, nếu có những tên kẻ trộm thông minh hơn thì nó có thể khoắng hết tài sản quốc gia, bởi vì chúng ta không có hệ thống báo động như vậy."

Thứ Bảy, 6 tháng 4, 2013

2013 GS Lê Xuân Khoa=Dân chủ VN

GS Lê Xuân Khoa=Dân chủ VN



Ông là nhà giáo chuyên nghiệp. Năm 1950, ông chính thức vào nghề dạy học ở Hà Nội. Sau khi tốt nghiệp Ðại Học Văn Khoa và Sư Phạm năm 1953, ông vào Sài Gòn dạy tại trường trung học Petrus Ký và viết sách giáo khoa cho Sở Tu thư, Bộ Giáo Dục.

Năm 1960, ông được học bổng của chính phủ Pháp theo học tại Ðại Học Sorbonne và ghi danh luận án Tiến sĩ Triết Học, đề tài: "Le Boudhisme dhyana au Vietnam".

Ông đã sang Ấn Ðộ nhiều lần để nghiên cứu Triết Học Ấn Ðộ.Ông giảng dạy Triết học Upanishad tại Ðại học Văn Khoa Sài Gòn và Văn Minh Việt Nam tại Ðại Học Ðà Lạt, Minh Ðức và Vạn Hạnh.
Chức vụ cuối cùng của ông ở Việt Nam là Phó Viện Trưởng Ðạihọc Sài Gòn.

Ông sang Hoa Kỳ năm 1975 và bắt đầu hoạt động ngay về tị nạn. Với tư cách chủ tịch Trung tâm Tác Vụ Ðông Nam Á (SEARAC), Ông vận động cho người tị nạn Ðông Dương với Chính Phủ và Quốc hội Mỹ, các chính phủ Hong Kong và Ðông Nam Á, Cao Ủy Tị nạn Liên Hiệp Quốc.

Ông được Phụ tá Ngoại trưởng Robert L. Funseth tuyên dương cùng với bà Khúc Minh Thơ và Mục sư Lý Công Thuận là đã có công đóng góp cho thỏa hiệp Việt Mỹ về vấn đề định cư cựu tù nhân chính trị. Ông cũng là người khởi xướng chương trình định cư người Việt hồi hương ở Hoa Kỳ (ROVR).

Năm 1993, ông được Bộ Ngoại Giao mời tham gia phái đoàn Mỹ dự Hội Nghị của Ủy Hội về An Ninh và Hợp tác ở Châu Âu (Commission on Security and Cooperation in Europe, CSCE) tại thủ đô Ba Lan để thuyết trình về vai trò của các tổ chức ngoài chính phủ trong công cuộc tái thiết và phát triển.

Năm 1996, ông được mời làm giáo sư thỉnh giảng tại trường Cao học về Nghiên cứu Quốc tế (SAIS) thuộc Ðại học Johns Hopkins ở Washington, D.C. Năm 2001, ông được nhận làm học giả ngoại trú của Học viện về Chính Sách Quốc Tế (FPI) cũng thuộc Ðại học Johns Hopkins, và từ đó chỉ chuyên tâm vào việc nghiên cứu và viết sách,
VIỆT NAM: VIỄN TƯỢNG DÂN CHỦ HOÁ

G.S LÊ XUÂN KHOA - đăng lúc 03:31:02 PM, Jul 09, 2005

Dưới đây là bản dịch bài mở đầu bằng Anh ngữ cho Nhóm thảo luận về “Triển vọng cho Xã hội Công dân” tại cuộc Hội luận về Việt Nam năm 2005: Tương lai Phát triển và Hội nhập Toàn cầu, tổ chức tại Ðại học St. Thomas, Houston, Texas, ngày 12-13 tháng Mười Một, 2004.

Dân chủ dưới hình thức chính quyền chưa bao giờ được nghĩ đến ở Việt Nam trước khi xứ sở hoàn toàn bị người Pháp đô hộ vào những năm đầu của thế kỷ 20. Trong vòng kiểm soát chặt chẽ của một đế quốc thực dân hùng mạnh, các sĩ phu Việt Nam yêu nước nhận thấy không thể nào giải phóng dân tộc bằng võ lực, nhất là trong khi đất nước còn bị cô lập và lạc hậu dưới một chính thể quân chủ đã lỗi thời. Họ bắt đầu thiết lập những chiến lược lâu dài nhằm đào tạo một thế hệ những người làm cách mạng hết lòng chiến đấu cho một nước Việt Nam không những tự do mà còn canh tân hóa. Mô hình của nền quân chủ sáng suốt ở Nhật bản do Phan Bội Châu cổ võ năm 1904 chẳng bao lâu bị thay thế bởi một loạt những khái niệm chính trị mới do ảnh hưởng của Tây phương. Trào lưu canh tân và dân chủ hóa mới mẻ này được Phan Chu Trinh khởi xướng khi ông cùng với Phan văn Trường, một luật sư ở Paris, thành lập “Hội Người Việt Nam Ái Quốc” vào khoảng năm 1913. Trong số những thành viên danh tiếng của hội này có Nguyễn An Ninh và Nguyễn Thế Truyền, Nguyễn Ái Quốc. Năm 1920, Nguyễn Ái Quốc chọn đường đi riêng bằng cách gia nhập Ðảng Cộng sản Pháp. 

Mặc dù dân chủ như một định chế chính trị là một sản phẩm của Tây phương, yếu tố cốt lõi của nó, tức là “vì dân”, đã được giảng dạy ở Trung Hoa và Việt Nam thời cổ như một thiên chức của nhà vua. Theo Mạnh Tử, một triết gia chính trị nổi tiếng của Nho giáo, “vua” đứng hàng thứ ba sau “dân” và “nước” (dân vi quý, xã tắc thứ chi, quân vi khinh). Theo quan niệm này, một vị minh quân có lòng “thương dân như con đẻ” sẽ được nhân dân tôn kính và tuân lệnh; trái lại, một nhà vua độc tài tàn bạo không quan tâm đến trách nhiệm của mình và “coi dân như cỏ rác” sẽ bị nhân dân coi như kẻ thù cần phải lật đổ. Ở thôn quê Việt Nam, có những tập tục trong làng xã mà ngay cả luật lệ của vua chúa cũng không thể thay đổi được, do đó có câu “Phép vua thua lệ làng”.

Những Trở ngại của Dân chủ hoá 

Ðiểm tương đồng này “vì dân” giữa chính thể dân chủ thật sự và nền quân chủ lý tưởng đã bị chế độ Cộng sản gạt bỏ cho đến khi Ðảng bắt buộc phải chuyển hướng bốn mươi năm sau. Tuy nhiên các nhà lãnh đạo Ðảng vẫn luôn luôn tuyên dương nhãn hiệu dân chủ. Quốc hiệu “Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà” được duy trì trong ba mươi năm cho đến khi được đổi thành “Cộng Hoà Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam” năm 1976 sau khi thống nhất đất nước. Sau đó, Ðảng nói nhiều hơn đến quyền lực của nhân dân, nhấn mạnh rằng dưới chế độ cộng sản, nhân dân làm chủ đất nước, ban hành và thực thi các chính sách. Ðây là định nghĩa của “dân chủ nhân dân” hay “dân chủ xã hội chủ nghĩa” vì nguyên tắc của xã hội chủ nghĩa là “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”. Trên thực tế, nhân dân không có quyền hành gì và tám chục triệu người dân Việt Nam đã bị một bộ máy của chưa đầy ba triệu đảng viên cộng sản quản lý và khai thác. Nhờ hào quang chiến thắng được “kẻ thù mạnh mẽ nhất, nguy hiểm nhất và tàn sát nhiều nhất” (tức là nước Mỹ) và sự kiểm soát toàn bộ đời sống của nhân dân, đảng Cộng sản đã duy trì được chế độ độc tài toàn trị cho đến khi Ðế quốc Sô-viết bị tan rã vào cuối thập kỷ 1980.

Theo gương Mikhail Gorbachev trong chính sách “mở cửa” (glasnost) và “tái cấu trúc” (perestroika), Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh tuyên bố “Ðổi mới hay là Chết” và bắt đầu một chương trình cải tổ gồm có những nỗ lực tiến đến một nền kinh tế thị trường và một chính sách cởi mở về tự do ngôn luận mệnh danh là “cởi trói văn nghệ sĩ”. Năm 1990, trước Ðại Hội Ðồng Liên Hiệp Quốc, Phó Thủ tướng kiêm Ngoại trưởng Nguyễn Cơ Thạch, đồng thời là Ủy viên Bộ Chính trị, đã thẳng thắn nhìn nhận rằng “những thành quả ban đầu trong chính sách đổi mới của chúng tôi đã cho thấy rõ những sai lầm cơ bản. Mục tiêu của chúng tôi là xây dựng một xã hội vì dân nhưng sai lầm là ở chỗ, trên thực tế, đây là một xã hội của nhà nước và bởi nhà nước.” Tiếp đó, ông Thạch long trọng tuyên bố rằng “việc xây dựng một xã hội của dân, bởi dân và vì dân đòi hỏi phải đổi mới không chỉ về kinh tế mà cả về mọi mặt bao gồm kinh tế, xã hội, văn hóa và chính trị. Song song với công cuộc đổi mới và tái cấu trúc kinh tế, Việt Nam đang thực hiện một tiến trình đổi mới từng bước vững chắc về chính trị.”1 

Thật chẳng đáng ngạc nhiên, khi trở về Hà Nội sau phiên họp ở Liên Hiệp Quốc và một chuyến ghé thăm ngắn thủ đô Washington D.C., ông Thạch đã bị các đồng nghiệp bảo thủ cực đoan thân (hay sợ) Trung Quốc chỉ trích kịch liệt và buộc phải từ chức vài tháng sau đó. 
Vì quá lo ngại sau khi khối Sô-viết hoàn toàn sụp đổ năm 1991, các nhà cầm quyền Việt Nam đã lập tức bãi bỏ tình trạng tự do ngôn luận có giới hạn và đưa ra những lời cảnh giác mạnh mẽ chống lại “âm mưu diễn biến hòa bình do các thế lực thù địch.” 

Việt Nam vội vàng nối lại các quan hệ bình thường với Trung Quốc và cố gắng theo sau nước đồng minh gần nhất và mạnh nhất này trong những toan tính thực hiện một nền “kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa” cũng như những phương cách đối phó với áp lực của quốc tế về các vấn đề nhân quyền. Tuy nhiên, vốn là một nước nhỏ không có thế lực mặc cả như Trung Quốc, Việt Nam phải vất vả hơn nhiều trong những cuộc đàm phán với Hoa Kỳ và cộng đồng thế giới để có thể được đối xử bình đẳng như những quốc gia không cộng sản. Trong tiến trình này, Việt Nam khó có thể cưỡng lại các biện pháp cải tổ về chính trị.

Những Biện pháp Nửa vời
Vấn đề đặt ra là các nhà lãnh đạo ở Việt Nam, muốn cho các nỗ lực hội nhập đất nước với cộng đồng thế giới được thành công, có ý định tiến đến một nền dân chủ thực sự hay không. Ta hãy xem xét phản ứng của nhà nước cộng sản Việt Nam đối với áp lực ngày càng gia tăng của Hoa Kỳ, Cộng đồng Âu châu, Tổ chức Thương mại Quốc tế, các quốc gia và cơ quan viện trợ, và các tổ chức nhân quyền trên thế giới. 

Năm 2000, từ ngữ “dân chủ” lại nổi bật trong ngôn ngữ chính thức ở Việt Nam. Trong một chuyến viếng thăm Washington D.C. vào tháng Chín năm đó, Tổng Bí thư Nông Ðức Mạnh, lúc ấy còn là Chủ tịch Quốc hội, loan báo rằng “Chúng tôi vừa quyết định thêm “dân chủ” vào những mục tiêu nhà nước cần thực hiện là “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.” 
Quyết định nhấn mạnh lại vào mục tiêu dân chủ có vẻ cho thấy ý muốn tiến hành đổi mới chính trị của đảng cộng sản Việt Nam.

Tuy nhiên, bốn năm đã trôi qua và dân chủ vẫn chỉ là một lời hứa xuông. Giới lãnh đạo chính trị ở Việt Nam vẫn chú trọng vào việc “ổn định chính trị và xã hội” như điều kiện tất yếu trong bước quá độ đến “dân chủ xã hội chủ nghĩa”. Vấn đề là ở chỗ không biết thời gian bao lâu mới có được sự ổn định về chính trị và xã hội để đạt tới “dân chủ xã hội chủ nghĩa”, một mục tiêu đã bị Khối Sô-viết và các nước Ðông Âu loại bỏ từ lâu. Mặc dù đổi mới kinh tế đã làm cho đời sống của người dân được cải thiện, chẳng hạn việc bãi bỏ chính sách “hộ khẩu”, việc đi lại và du lịch và việc làm ăn của tư nhân được tự do hơn, những vi phạm trắng trợn về nhân quyền vẫn xảy ra khiến cho các quan sát viên quốc tế phải lên tiếng tố giác mạnh mẽ. Gần đây, theo khuyến nghị của Ủy hội Hoa Kỳ về Tự do Tôn giáo Thế giới, Bộ Ngoại giao Mỹ đã qui định Việt Nam là “một nước cần đặc biệt quan tâm”. 

Nhằm đáp lại áp lực của quốc tế, Việt Nam đã thả một số người chống đối và giảm án tù cho một số người khác như một hành động thiện chí. Pháp lệnh Tôn giáo ban hành ngày 18 tháng Sáu, 2004, xác nhận công dân có quyền theo bất cứ tôn giáo nào mà mình lựa chọn, nhưng trên thực tế quyền tự do này mới chỉ được giới hạn vào tự do thờ phụng chứ chưa phải là tự do tôn giáo. 

Mọi cố gắng của chính quyền nới lỏng sự kìm hãm các quyền tự do của công dân đều chỉ là những biện pháp nửa chừng để cho sự an toàn của chế độ vẫn được bảo vệ. Dù sao chăng nữa, tình hình chung đã được cải thiện và tiến trình dân chủ, dù khó khăn và chậm chạp, hiển nhiên là một tiến trình không thể đảo ngược.

Trong khi dò dẫm trên bước đường cải tổ chính trị, chính quyền Việt Nam đã chấp nhận những thay đổi mới trong xã hội do những cuộc tiếp xúc với thế giới bên ngoài qua sự hợp tác và giúp đỡ của quốc tế và những phương tiện truyền thông điện tử tân kỳ. Những tác nhân làm thay đổi xã hội là những nguời làm kinh doanh, chuyên viên của các tổ chức quốc tế, văn nghệ sĩ trong các chương trình trao đổi văn hóa, sinh viên du học trở về nước sau khi tốt nghiệp, người Việt ở nước ngoài về thăm quê hương, và nhất là hàng trăm tổ chức quốc tế phi chính phủ đang thực hiện những chương trình nhân đạo và phát triển ở khắp nơi trên toàn quốc. Qua những cuộc giao tiếp này, các điều kiện thuận lợi cho một xã hội công dân được nảy nở và mở đường cho sự thành lập một chính quyền dân chủ. (Ông Nông Duy Trường sẽ thuyết trình về vấn đề này và nhấn mạnh đến vai trò của các tổ chức phi chính phủ và công cuộc toàn cầu hóa.) Ngòai ra, cũng cần ghi nhận rằng đa số dân chúng Việt Nam ở trong nước, ước định khoảng 60 phần trăm, là những người sinh sau năm 1975. Chắc chắn là thế hệ trẻ và năng động này rất tha thiết với công cuộc hiện đại hóa và dân chủ hóa Việt Nam. (Bà /Ông Thụy Như Ngọc sẽ thảo luận kỹ vấn đề này trong một bài nghiên cứu công phu về những điểm khác biệt giữa các địa phương và các thế hệ người Việt đối với các giá trị về chính trị). 

Một Ðường lối Thực tế
Dân chủ là một mục tiêu mà Việt Nam đang phấn đấu để đạt tới. Tuy nhiên, tiến trình dân chủ không thể nào hoàn tất được chừng nào mà chính quyền hiện nay còn cảm thấy sự tồn tại của mình bị đe dọa. Cũng như ở Trung Quốc, sự giằng co giữa hai khuynh hướng bảo thủ và tiến bộ có thể biến tiến trình dân chủ hóa thành một vòng lẩn quẩn cho đến khi chính quyền và nhân dân đạt được sự đồng thuận. Vấn đề là làm thế nào để có được sự đồng thuận giữa đảng cầm quyền và dân chúng? Mao Vu Thức, chủ tịch Hội đồng Quản trị của Viện Nghiên cứu Kinh tế “Thiên Tắc”, một cơ quan tư duy độc lập về kinh tế và chính trị ở Bắc Kinh, dường như có câu giải đáp thích hợp cho Trung Quốc, và giải đáp này, trong một mức độ lớn, cũng có thể áp dụng vào tình trạng của Việt Nam. 

Trong một bài báo đăng trên nguyệt san China Review tháng Chín, 2003,2 Mao Vu Thức (không có quan hệ với Mao Trạch Ðông) thảo luận về tiến trình đổi mới kinh tế và chính trị ở Trung Quốc từ giữa thập kỷ 1980 và nhận xét rằng “mặc dù môi trường chính trị ngày nay tốt hơn nhiều so với 25 năm về trước, vẫn chưa có sự cải tổ thiết yếu trong hệ thống chính trị và không có điều gì có thể tiên đoán được. Không ai biết là cần phải đi và sẽ đi về đâu. Bước đi nào là khả thi và an toàn cho mọi phía?” Tiếp đó, họ Mao nhấn mạnh rằng điều kiện tiên quyết cho nhân dân và chính phủ đạt được đồng thuận là sự nhìn nhận lẫn nhau và thái độ khoan dung đối với nhau. Nhân dân cần phải nhìn nhận tính cách chính đáng của chính phủ vì không thể có lãnh đạo hữu hiệu nếu không có thẩm quyền và ổn định xã hội. Ðể đổi lại, chính phủ phải chấp nhận sự tham gia của những công dân không phải là đảng viên, không chỉ trong những cuộc thảo luận xây dựng mà còn cả trong vấn đề điều hành việc nước, từ các hội đồng ở cấp xã lên đến cơ quan chính quyền trung ương. Mao phàn nàn rằng “Hiện nay, tỉ lệ những người ngoài đảng trong các chức vụ bộ trưởng và thứ trưởng còn ít hơn cả dưới thời Mao Trạch Ðông. Ðất nước được quản lý giống như đảng cộng sản. Ðó là điều bất bình thường. Nếu chúng ta không qua được trạm kiểm soát thì vấn đề dân chủ và pháp trị chỉ là những lời nói rỗng tuếch.” 

Về vấn đề khoan dung, Mao yêu cầu bộ tuyên truyền đình chỉ lề lối độc quyền việc nước để cho những ý kiến độc lập có thể được phát biểu. Ông nói: “Nếu những ý kiến dù hay hay dở đều bị cấm xuất bản, nếu mọi cuộc thảo luận đều bị chiếm độc quyền thì làm sao chúng ta có thể nhận diện đây (Trung Quốc) là một xã hội dân chủ?” Ông còn đề nghị rằng các tù nhân lương tâm phải được đối xử tử tế hơn vì “trên nguyên tắc, những tội phạm chính trị không thể bị trừng phạt.” Ông còn mạnh bạo hơn khi lý luận: “Nếu đảng Cộng sản tuyên bố ân xá các phạm nhân chính trị thì tính cách chính đáng của Ðảng sẽ lập tức được mở rộng và địa vị quốc tế sẽ được nâng cao. Ðặc biệt sẽ có một không khí khoan hoà cho những cuộc thảo luận về chính trị.” Mặt khác, theo Mao, những ý kiến khác biệt cần phải được phát biểu bằng lý trí chứ không bằng cảm tính, bằng lịch sự chứ không bằng xúc phạm. Mao cảnh giác rằng: “Sự chỉ trích cần phải xuất phát từ những ý định tốt để được bên kia vui lòng chấp nhận. . . . Những điều chúng ta đọc thấy trên mạng thông tin hầu hết là than phiền và ngay cả xỉ vả. . . . Bày tỏ lòng bất mãn có thể chấp nhận được, nhưng nếu hầu hết mọi người đều thảo luận với thái độ (chỉ trích) như thế, cuộc thảo luận sẽ trở nên gay go và sẽ phải gián đoạn nửa chừng.” 

Từ ngày Ðặng Tiểu Bình lên cầm quyền, Trung Quốc đã tiến lên chậm chạp nhưng vững chãi trên con đường dân chủ hoá, dù cho mục tiêu chưa được xác định rõ và không biết chắc bao giờ mới đạt được. Theo ý kiến họ Mao, tiến trình này có thể lâu từ ba tới bốn chục năm, và ông yêu cầu mọi người chớ nên vội vã vì đa số dân Trung Quốc vốn nghèo và thất học. “(Họ) không coi dân chủ thời hiện đại là chính trị tốt, họ chỉ mong có được một chính phủ nhân đức do một vị minh quân cầm đầu.” Ông quả quyết rằng dân chủ hoá “không phải là một tiến trình thông suốt. . . . Ðây là một quá trình một bước lùi, hai bước tiến.”3 

Ðề nghị của Mao Vu Thức về sự nhìn nhận lẫn nhau và khoan dung đối với nhau có thể thích hợp với hoàn cảnh Việt Nam hiện nay còn lê bước ở đàng sau Trung Quốc về đổi mới cả kinh tế lẫn chính trị. Ðã đến lúc Việt Nam cần cho phép những nhà trí thức có tâm huyết thành lập một cơ quan nghiên cứu tư nhân tương tự như Viện Kinh tế “Thiên Tắc”4 ở Bắc Kinh. Viện này được thành lập năm 1993, lúc đầu chuyên nghiên cứu về kinh tếợ nhưng từ ngày cải tổ cơ cấu năm 1999 thì mở rộng sứ mệnh, từ “những cuộc nghiên cứu hàn lâm về kinh tế và các khoa học xã hội khác” đã trở thành một diễn đàn “tôn trọng ý kiến độc lập, tự do tìm tòi và thảo luận công khai. Qui chế mới của Viện với tư cách một tổ chức nghiên cứu vô vị lợi cũng làm cho Viện có thể mở rôỳng cho công chúng thực sự tham gia vào các hoạt động của Viện.”5 
Một thí dụ khác về tính công khai này là bản phúc trình về phiên hội luận thứ 234 (hai tuần một lần) của Viện. Bản phúc trình này dẫn lời Cai Decheng (Thái Ðắc Sanh ?), một tham luận viên chống đối mạnh mẽ tiến trình dân chủ hoá chậm chạp bằng việc nhắc đến trường hợp Ðài Loan. Ông nói: “Khi Tưởng Kinh Quốc bãi bỏ hai điều ngăn cấm thì dư luận chống đối ồn ào trong nội bộ Quốc Dân Ðảng. Họ cho rằng dân chúng Ðài Loan còn thấp kém không đủ trình độ dân chủ hoá. Nhưng các sự kiện sau đó đã chứng tỏ là họ sai lầm. Vì thế, chúng ta phải tin tưởng rằng người dân Trung Quốc cũng có đủ điều kiện dân chủ hóa.”6

Trong trường hợp Việt Nam, vấn đề nhìn nhận lẫn nhau và khoan dung với nhau không phải chỉ đặt ra giữa chính quyền và nhân dân trong nước. Nó còn là vấn đề giữa chính quyền trong nước và một cộng đồng hải ngoại ngày càng lớn mạnh về tiền bạc, trí tuệ và ảnh hưởng chính trị. Trong trường hợp này, chính quyền trong nước cần phải đi bước trước và chứng tỏ thiện chí một cách cụ thể hơn, nhất là những cử chỉ hòa giải với các nạn nhân của những chính sách học tập cải tạo và vùng kinh tế mới, để có được sự đáp ứng tích cực của cộng đồng người Việt ở nước ngoài. Ðây là một vấn đề rất nhạy cảm và phức tạp cần phải được thảo luận riêng biệt trong một dịp khác.

G.S LÊ XUÂN KHOA

Giáo sư Lê Xuân Khoa là cựu Chủ tịch Trung Tâm Tác Vụ Ðông Nam Á (SEARAC) và là giáo sư thỉnh giảng tại trường Cao học Nghiên cứu Quốc tế thuộc Ðại học Johns Hopkins, Washington, D.C. Ông là tác giả của nhiều bài viết về vấn đề tị nạn và về quan hệ giữa cộng đồng người Việt hải ngoại và Việt Nam. Cuốn sách của ông mới xuất bản gần đây “Việt Nam 1945-1995: Chiến tranh, Tị nạn và Bài học Lịch sử” đã gây được sự chú ý đặc biệt trong dư luận: : Ðịa chỉ email của G.S. Khoa là: khoa.le2@verizon.net

1 Diễn văn đọc tại phiên họp thứ 45 của Ðại Hội đồng Liên Hiệp Quốc, New York, 4 tháng Mười, 1990.

2 Bài báo nhan đề “Con Ðường Dân chủ hóa ở Trung Quốc” (The Road of Democratization in China) được in trên ấn bản Anh ngữ của nguyệt san China Review, tháng Chín 2003, do Unirule Institute of Economics xuất bản ở Bắc Kinh. Tất cả những lời của Mao Vu Thức (Mao Yushi) trích dẫn trong bài này, trừ chú thích số 3 dưới đây, đều được dịch lại từ bản dịch tiếng Anh của Wang Hongchang. Xem http://www.china-review.com/english/eng-11.htm 

3 Riêng câu này của Mao Vu Thức là do Jim Yardley trích dẫn trong bài báo “Democracy: Chinese Style: Two Steps Forward, One Step Back” (New York Times, December 21, 2003). 

4 Viện này được đặt tên là ”Thiên Tắc” (qui luật thiên nhiên) để xác định rằng mọi sinh hoạt kinh tế, chính trị, văn hoá, khoa học và xã hội đều phải tuân theo qui luật của vũ trụ chứ không thể theo những qui luật hoàn toàn do ý muốn của con người. Vì ý nghĩa đó, Viện Kinh tế Thiên Tắc được dịch sang Anh văn là “Unirule Institute of Economics” (Unirule là cách gọi tắt Universal Rules). 
Xem http://www.unirule.org.cn/E_introduction/e_intro.html, tr. 1, đoạn thứ nhất. 

5 như trên, tr. 1, đoạn “Mission”. 

6 Bản phúc trình này nhan đề là “Mục tiêu của Hiện đại hoá Trung Quốc là Dân chủ” (The Goal of Chinese Modernization is Democracy), trong China Review, March 11, 2004. Xemhttp://www.china-review.com/english/eng-20.htm