Lòng Từ Bi và Con Người
http://www.huequang.net/
Tác giả: Dalai Lama
Một câu hỏi quan trọng nằm chôn vùi dưới kinh nghiệm của chúng ta, cho dù chúng ta biết đến nó hay không biết, đó là : Cuộc sống có ý nghĩa gì không?
Tôi có nghĩ về điều nầy và muốn được chia xẻ với mọi người những gì tôi nghĩ, với hy vọng là những điều nầy có thể đem lại ích lợi thiết thực cho những ai đọc qua bài nầy.
Tôi tin rằng ý nghĩa của cuộc sống là hạnh phúc. Từ lúc sanh ra đời, mỗi người trong chúng ta đều muốn hạnh phúc và tránh đau khổ. Không một điều kiện xã hội hay giáo dục, hoặc một lý tưởng nào có thể làm lệch lạc sự mong muốn nầy.
Từ trong tâm thức của con người chúng ta, tất cả đều muốn được an vui, hạnh phúc. Tôi không biết vũ trụ với vô số tinh tú, ngân hà & thế giới có ý nghĩa gì sâu sắc hay không; nhưng ít nhất, chúng ta cũng thấy rõ rằng con người sống trên trái đất nầy có nhiệm vụ làm cho cuộc sống của mình hạnh phúc. Vì vậy, điều quan trọng là khám phá ra điều gì sẽ mang lại hạnh phúc nhiều nhất.
Làm thế nào để đạt hạnh phúc.
Hãy bắt đầu chia hạnh phúc và khổ đau làm hai phần chánh : Tinh thần, và thể xác. Trong hai phần nầy, tinh thần có ảnh hưỏng nhiều nhất nơi chúng ta.
Trừ khi chúng ta bệnh nặng hoặc bị đói khát, cơ thể chúng ta chỉ là phần phụ thuộc trong cuộc sống nầy. Nếu cơ thể tráng kiện, chúng ta không hề để ý đến nó. Tinh thần thì khác, nó ghi chú mọi việc, dù nhỏ nhặt đến đâu. Vì vậy chúng ta phải hết lòng cố gắng làm sao cho tinh thần mình được an lạc.
Trong kinh nghiệm giới hạn của tôi, tôi thấy rằng sự an lạc tột cùng là khi chúng ta làm tăng trưởng tình thương và lòng từ bi.
Lúc mà ta lo cho hạnh phúc của mọi người, là lúc mà chính ta đang hưởng hạnh phúc. Làm tăng trưởng lòng từ một cách tự động, là làm cho tinh thần được bình an. Điều nầy giúp ta dẹp sợ hãi và lo lắng, và giúp ta sẵn sàng đối phó với những trắc trở của cuộc đời. Đây là sự thành công tối hậu trong cuộc sống.
Khi mà ta còn sống trong thế giới nầy, là ta vẫn còn có vấn đề. Trong trường hợp gặp khó khăn, nếu chúng ta đánh mất hy vọng và trở nên chán nản, thì ý chí phấn đấu của chúng ta sẽ bị giảm đi. Ngược lại, nếu chúng ta nhớ rằng mọi người chung quanh đều phải trải qua đau khổ, thì cái nhìn thực tế nầy sẽ làm tăng ý chí và khả năng của chúng ta, để chúng ta đối phó với nghịch cảnh.
Thật ra, với thái độ nầy, mỗi khó khăn gặp phải, được xem như là một cơ hội ngàn vàng để chúng ta làm tăng trưởng phần tinh thần của chính mình.
Do đó, chúng ta phải tranh đấu dần dần để trở nên từ bi hơn, như vậy chúng ta mới có thể phát triển tình thương và giúp đỡ những ai đang đau khổ. Kết quả là sức mạnh nội tâm và sự thanh thản của chúng ta được tăng lên.
Chúng ta cần Tình thương.
Lý do tại sao tình thương và lòng từ bi được xem như là điều hạnh phúc nhất, bởi vì trong tâm khảm mỗi chúng ta đều mong muốn được thương yêu. Tình thương rất cần thiết cho sự sinh tồn của con người. Đó là mối liên hệ phụ thuộc lẫn nhau rất sâu sắc giữa con người với con người. Không cần biết là người đó có khả năng như thế nào và cho dù người đó có giỏi đến đâu đi nữa, kẻ đó cũng không thể sống sót nếu chỉ có một mình. Một người có thể khỏe mạnh, tráng kiện đến mức tối đa trong một khoảng thời gian nào đó, nhưng một khi ngã bệnh hay lúc quá nhỏ, hoặc quá già, ta vẫn phải cần sự giúp đỡ của những người chung quanh .
Sự liên hệ phụ thuộc lẫn nhau là điều căn bản của luật tạo hóa. Không phải chỉ có loài người , kể cả những côn trùng nhỏ bé nhất, không có tôn giáo, hay luật lệ, chúng vẫn phải nương tựa vào nhau để mà được sống còn. Cả đến hiện tượng vật chất nhỏ bé nhất cũng phải bị chi phối bởi luật " phụ thuộc lẫn nhau" (interdependence).
Những hiện tượng trên trái đất như : mây, biển, rừng, hoa lá cũng được cấu tạo bởi những năng lượng phụ thuộc lẫn nhau. Không có những năng lượng nầy, thì chúng tan hoại ngay.
Bởi vì đời sống của con người là phụ thuộc lẫn nhau, cho nên đây là một điều tự nhiên khi ai ai cũng cần tình thương. Vì vậy chúng ta cần ý thức trách nhiệm của mình trong việc đem lại an vui cho mọi người.
Nên hiểu rằng những thiếu thốn hay đau khổ của con người là thuộc về phần tinh thần vì thế chúng không thể giải quyết được bằng máy móc tinh vi, vì vậy thật là một điều sai lầm khi ta tìm kiếm hạnh phúc bằng những thứ bên ngoài.
Chúng ta nên nhìn lại để tìm kiếm cho đúng thứ mà ta cần cho hạnh phúc.
Nếu bỏ qua câu hỏi rắc rối về tạo hóa và sự tiến triển của vũ trụ, chúng ta ít ra cũng đồng ý rằng mỗi chúng ta là một sản phẩm của cha mẹ chúng ta. Thông thường, mỗi chúng ta có mặt nơi đây là vì cha mẹ chúng ta muốn nuôi dưỡng một đứa con cho đến lúc nó trưởng thành và có thể tự lập. Vì vậy, ngay từ phút đầu thọ thai, tình thương của cha mẹ dành cho chúng ta bắt nguồn từ lúc đó.
Hơn nữa chúng ta hoàn toàn nương tựa vào sự săn sóc của mẹ chúng ta ngay từ lúc ban đầu. Theo các khoa học gia, tinh thần của người mẹ trong lúc mang thai có ảnh hưởng rất nhiều đến đứa trẻ trong bụng.
Sự thể hiện tình thương cũng rất quan trọng lúc đứa trẻ ra đời. Ngay từ buổi đầu việc đầu tiên chúng ta làm là tìm vú mẹ, chúng ta tự nhiên thấy gần với mẹ, và mẹ chúng ta phải cảm nhận được tình thương đó bà mới có thể lo bú mớm cho chúng ta m ột cách tốt đẹp; nếu bà cảm thấy tức giận hay bực tức thì sữa sẽ chảy không đều.
Kế đến là lúc tuổi khoảng 3 hay 4, đây là khoảng thời gian rất quan trọng cho việc phát triển bộ óc; trong lúc nầy, sự gần gủi săn sóc rất cần cho sự phát triển bình thường của đứa trẻ. Nếu đứa trẻ không được ôm vào lòng, không được trìu mến thương yêu thì sự phát triển của bộ óc đứa trẻ sẽ bị hư hao hoặc kiếm khuyết.
Đứa trẻ không thể sống sót nếu không có sự chăm nom của người khác, vì vậy tình thương là món ăn cần thiết để nuôi dưỡng trẻ. Hạnh phúc của tuổi ấu thơ, đều nhờ vào tình thương, nhờ có tình thương, mà đứa trẻ dẹp được những nỗi lo sợ và trưởng thành một cách lành mạnh.
Hiện tại có bao đứa trẻ lớn lên trong những gia đình không hạnh phúc. Nếu chúng không được thương yêu trọn vẹn, thì sau nầy chúng ít khi nào thương được bố mẹ chúng, và thường thì, những đứa trẻ nầy không hiểu được thế nào là thương người khác. Thật là đáng điều đáng buồn!
Khi đứa trẻ lớn lên và đến trường, chúng cần sự nâng đỡ nơi thầy, cô. Thầy, cô không phải chỉ có truyền đạt kiến thức mà còn phải chịu trách nhiệm về việc chuẩn bị cho đứa trẻ bước vào đời. Học sinh phải cảm nhận được sự tin cậy, và kính trọng, những gì chúng học được nơi thầy cô sẽ là một dấu ấn khó phai.
Ngược lại, nếu thầy cô chỉ lo dạy về môn học mà không để ý gì đến tánh tình, hạnh kiểm của học sinh thì thầy cô đó khó có thể dạy học lâu dài , họ chỉ có thể dạy trong một thời gian ngắn thôi Cũng như khi một người bệnh, gặp bác sĩ tận tâm, niềm nở, nhất là sự mong muốn họ mau khỏi bệnh, nhờ vậy họ cảm thấy thoải mái với sự ân cần của y sĩ , người nầy sẽ dễ dàng khỏi bệnh. Ngược lại, nếu bác sĩ giỏi nhưng không tận tâm, không ân cần, niềm nở, dù thuốc hay, nhưng vì bệnh nhân không thoải mái nên việc lành bệnh cũng không mau chóng.
Kể cả khi chúng ta nói chuyện thường ngày, nếu có người nói chuyện ân cần, thân mật, thì tức khắc chúng ta cảm thấy muốn nghe, và muốn tiếp chuyện; câu chuyện sẽ trở nên hấp dẫn hơn, cho dù đề tài không hay. Ngược lại, nếu một người nói chuyện lạnh nhạt hay trả lời nhát gừng, chúng ta sẽ cảm thấy khó chịu và muốn mau mau kết thúc câu chuyện. Từ việc nhỏ cho đến việc lớn, hạnh phúc của chúng ta tùy thuộc vào tình cảm và sự quan tâm của người chung quanh.
Vừa rồi, tôi có gặp những khoa học gia ở Mỹ, họ bảo là mức độ về bệnh tâm thần ở đất nước họ đã tăng khoảng mười hai phần trăm trong dân số. Trong buổi bàn cãi, chúng tôi nhận ra rằng bệnh tâm thần không phải do thiếu thốn vật chất mà ra, mà lý do chánh là vì thiếu tình thương, thiếu tình thân ái giữa con người với con người.
Qua những gì tôi viết trên đây, một điều chắc chắn rõ ràng là : cho dù chúng ta có nhận thức được hay không về điều nầy, sự cần thiết tình thương đã nằm sẵn trong huyết quản của chúng ta ngay từ buổi ban đầu. Người lớn và trẻ em đều hướng đến tình thương, cho dù tình thương đó được mang đến từ một con vật hay từ một người mà bình thường ta vẫn xem như là thù địch.
Tôi tin rằng không một ai sanh ra mà không cần tình thương. Vài trường Triết đã công nhận rằng con người không phải chỉ thuần là thể xác. Tinh thần là chủ động trong việc cảm nhận được cái đẹp, cái quý giá, làm cho chúng ta có thể thương yêu.
Phát triển lòng từ.
Vài người bạn của tôi nói rằng, tình thương và lòng từ bi rất tốt đẹp và kỳ diệu, nhưng chúng không có chỗ đứng trong thế giới của chúng ta, nơi mà lòng sân hận và thù hằn là một phần của con người, và như vậy chúng ta luôn bị sân hận làm chủ. Điều nầy tôi không đồng ý.
Con người chúng ta hiện hữu với hình hài nầy trong khoảng gần một trăm ngàn năm. Tôi tin rằng trong khoảng thời gian đó nếu tinh thần chúng ta bị sân hận làm chủ thì dân số của con người đáng lý phải bị giảm đi. Nhưng cho đến hôm nay, dù có những trận chiến, dân số con người vẫn gia tăng hơn bao giờ hết.
Điều nầy chứng tỏ rằng, tình thương và lòng từ vẫn chiếm ưu thế. Vì vậy, những việc không hay là"tin tức", những việc làm từ bi trong đời sống hàng ngày bị coi như là điều tất nhiên, và phần lớn bị lờ đi.
Theo kinh nghiệm của riêng tôi, thì sự thăng bằng về mặt tinh thần và cơ thể mạnh khỏe có liên hệ mật thiết. Sự khích động và tức giận dễ làm chúng ta nhiễm bệnh . Ngược lại, nếu tinh thần yên tịnh và tràn đầy những ý nghĩ tốt lành thì cơ thể ít có cơ hội bị bệnh hoạn tấn công.
Muốn được hạnh phúc chân thật thì cần phải có một tinh thần an lạc, và để được tinh thần an lạc, cần phải có lòng từ bi, làm sao để chúng ta phát triển được lòng từ ? Chỉ nghĩ đến lòng từ bi thôi cũng chưa đủ, chúng ta phải làm sao để chuyển hóa tâm niệm và hành động của mình trong đời sống hàng ngày .
Trước hết, chúng ta phải biết rõ từ bi nghĩa là gì. Lòng từ cũng có nhiều hình thức và lắm lúc lẫn lộn với bám víu và ham muốn. Chẳng hạn, tình thương của cha mẹ dành cho con cái thường có liên quan đến những nhu cầu tình cảm của riêng họ, vì vậy tình thương không được hoàn toàn từ bi. Cũng vậy trong hôn nhân, tình thương giữa hai vợ chồng--nhất là lúc ban đầu, lúc mà cả hai chưa rõ những cá tánh sâu sắc của nhau--tình thương dựa vào bám víu hơn là đơn thuần thương yêu. Vì dục vọng của chúng ta quá mạnh nên người hôn phối dù có tánh xấu, dưới mắt ta lúc bấy giờ người ấy thật là hoàn hảo. Hơn nữa, ta lại có khuynh hướng khuếch trương những điều tốt nho nhỏ. Do đó, khi mà tánh tình một trong hai người thay đổi thì người kia cảm thấy thất vọng vì chính tánh tình họ cũng có đổi thay. Đây là điều cho ta thấy tình yêu được thúc đẩy bởi những nhu cầu của cá nhân hơn là vì thương yêu kẻ khác.
Lòng từ bi chân thật không phải là một thứ tình thương có qua có lại, mà là một sự cam kết chắc chắn dựa trên lý trí. Vì vậy, cho dù kẻ thọ nhận cư xử không tốt, một hành động từ bi thật sự sẽ không hề thay đổi .
Dĩ nhiên là phát triển lòng từ bi chân thật sẽ không phải là một việc dễ dàng. Lúc bắt đầu thực tập, chúng ta nên nhìn vào những điểm sau đây :
Dù người đẹp hay người xấu, người dễ thương hay kẻ phá hoại, chúng ta đều là con người như nhau cả. Và vì là con người nên chúng ta đều muốn hạnh phúc và không muốn đau khổ. Hơn nữa, mỗi người có quyền tự do riêng để tránh đau khổ và hưởng sung sướng. Bây giờ bạn chấp nhận là tất cả chúng ta đều muốn hạnh phúc, và vì vậy bạn sẽ tự dưng cảm thông được với mọi người và cảm thấy gần gủi họ hơn. Thực tập điều nầy sẽ làm cho tinh thần bạn cảm nhận được tình vị tha, và bạn sẽ phát triển được lòng tôn kính nơi mọi người chung quanh : muốn giúp họ bớt khổ đau. Vì là con người nên ai ai cũng phải trải qua những kinh nghiệm vui, buồn, sung sướng và đau khổ, vì vậy không lý do gì bạn lại không thương được những người có những hành động ích kỷ.
Trong khả năng của chúng ta, để thực tập lòng từ bi, chúng ta phải cần có kiên nhẫn và thời gian. Tận trong tiềm thức của chúng ta, lúc nào cái "Tôi" cũng chiếm ưu thế, và vì cái "Tôi" đó mà lòng từ bị giới hạn. Thật ra lòng từ bi chân thật chỉ được thể hiện khi mà cái "Tôi" bị diệt bỏ. Nói như thế không có nghĩa là chúng ta không làm chi được, cái gì cũng có bắt đầu, thực tập và tiến triển là điều có thể làm được.
Làm thế nào để bắt đầu.
Để bắt đầu, chúng ta phải loại bỏ sân hận. Như chúng ta đã biết, sân hận là những năng lực tình cảm rất mạnh, chúng có thể hoàn toàn áp đảo tinh thần chúng ta. Nhưng chúng ta có thể làm chủ được chúng. Nếu không, chúng sẽ làm cho ta bị điêu đứng và việc tìm kiếm hạnh phúc với một tinh thần thương yêu sẽ khó mà thực hiện được.
Trước hết, hãy khám xét xem cái giận có tốt không. Đôi lúc, khi chúng ta chán nản vì một hoàn cảnh nào đó, cái giận dường như giúp chúng ta mạnh hơn, tự tin hơn và có quyết tâm. Lúc nầy, chúng ta phải kiểm điểm trạng thái tinh thần của mình một cách cẩn trọng. Thật sự cái giận cho ta thêm năng lực, nếu chúng ta khảo sát tỉ mỉ năng lượng của cái giận, ta khám phá ra rằng năng lượng nầy rất là mù quáng : chúng ta không biết được kết quả của nó sẽ là tốt hay xấu.
Bởi vì cái giận che lấp đi phần duy lý của bộ óc. Vì vậy năng lượng của cái giận không thể được tín nhiệm. Nó có sức hủy hoại rất lớn và tạo nên nhiều hành động đáng tiếc. Hơn nữa, nếu cái giận tăng lên đến mức tối đa, thì một người sẽ trở nên điên loạn, làm những việc có hại cho mình và cho người.
Tuy nhiên, chúng ta có thể phát triển một năng lượng khác cũng mạnh nhưng kiềm chế được để mà thích ứng với hoàn cảnh khó khăn.
Năng lượng nầy có được phát xuất từ cách cư xử với lòng từ bi, sự kiên nhẫn và lý trí. Đây là những thuốc giải hiệu nghiệm cho việc chữa trị cái giận. Đáng tiếc thay, bao người hiểu nhầm về những điều nầy, và cho đấy là biểu tượng của sự hèn nhát, yếu đuối. Tôi thì nghĩ ngược lại : chúng chính là những dấu hiệu cho một sức mạnh nội tâm. Trạng thái tự nhiên của lòng từ bi là sự dịu dàng, hòa nhã, mềm mỏng, nhưng có năng lượng rất mạnh mẻ. Những kẻ dễ tức giận là những người thiếu kiên nhẫn, dễ bất an và không ổn định. Do đó, đối với tôi, sự tức giận là một dấu hiệu của yếu đuối.
Vì vậy, khi vấn đề xuất hiện, nên cố gắng giữ bình tĩnh, với một hành động chân thành cho kết quả được công bằng. Dĩ nhiên là sẽ có những kẻ lợi dụng bạn, khi bạn giữ không bám víu, và hành vi nầy chỉ khuyến khích họ thêm hung hăng, thì bạn phải lên tiếng cho họ biết quan điểm của mình, và nếu cần thì tìm biện pháp để đối phó, nhưng tuyệt nhiên hành động không có sự tức giận hay ác ý ẩn bên trong.
Bạn nên hiểu rằng, cho dù kẻ đối nghịch đang hảm hại bạn, cuối cùng thì hành động nầy cũng chỉ gây hại cho chính họ thôi. Để kiểm soát sự trả đũa của bạn vì íck kỷ, bạn cần phải kêu gọi đến lòng mong muốn thực tập hạnh từ bi, và nhờ đó mà cố gằng giúp đỡ kẻ kia khỏi bị khổ não do chính hành động không hay của họ gây ra.
Hành động trả đũa thường dựa trên năng lực giận dữ với sự mù quáng cho nên sẽ không có kết quả tốt. Vì thế, khi bạn chọn lựa cách đối phó một cách từ tốn, có ích lợi cho cả đôi bên thì kết quả sẽ chính xác, có hiệu lực hơn.
Bạn và kẻ thù.
Tôi muốn nhấn mạnh rằng chỉ suy nghĩ về : lòng từ, sự kiên nhẫn sẽ không ích lợi gì nếu bạn không thực tập chúng. Muốn thực tập những điều nầy thì hay nhất là những lúc khó khăn xuất hiện, hãy thử thực tập chúng.
Và ai là người cho ta những cơ hội khó khăn để thực tập? Dĩ nhiên là không phải bạn chúng ta, mà là kẻ thù của chúng ta. Họ là những người gây cho ta nhiều khó khăn nhất. Và nếu ta thật sự muốn học hỏi thì hãy xem kẻ thù như là những người thầy giỏi nhất!
Người thực tập hạnh từ bi và tình thương, cần phải thực tập luôn sự khoan dung, và như vậy thì , kẻ thù không thể thiếu được. Chúng ta phải cảm ơn kẻ thù, vì nhờ họ mà chúng ta phát triển được sự an bình của tinh thần. Thêm nữa, trong những trường hợp thuộc cá nhân hay công cộng có một thay đổi, kẻ thù cũng có thể trở thành bạn.
Sân hận rất có hại, chúng ta cần phải thực tập để làm giảm bớt năng lực của chúng nơi phần tinh thần, nếu không chúng sẽ tiếp tục làm phiền và gây khó khăn cho ta trong việc thực tập sự an lạc. Sân, Hận là kẻ thù thật sự của chúng ta. Đây là những năng lực mà chúng ta cần phải đối phó.
Thật là tự nhiên khi chúng ta ai ai cũng muốn có bạn. Tôi hay nói đùa là nếu bạn thật sự muốn ích kỷ, thì bạn cần phải nên vị tha. Bạn cần phải giúp đỡ, săn sóc mọi người, lo cho họ, làm bạn với họ, mang lại nụ cười cho họ. Kết quả ?
Khi mà cần sự giúp đỡ, bạn sẽ tìm thấy bao là người sẵn sàng! Ngược lại nếu bạn không lo gì đến hạnh phúc của kẻ khác, sau nầy bạn sẽ là kẻ thua thiệt.
Có người nói tình bạn hay mang đến cãi vã, giận dữ, ganh tyﬠvà tranh dành ? Tôi không đồng ý về điểm nầy. Tôi nhận thấy chỉ có tình thương mới mang lại cho chúng ta những người bạn thân đúng nghĩa.
Trong xã hội vật chất hiện nay, nếu bạn có tiền và có địa vị, thì dường như bạn có rất nhiều bạn. Nhưng họ đâu phải là bạn của bạn, họ là bạn của tiền và địa vị của bạn. Khi mà bạn trắng tay, mất hết quyền lực thì không còn tìm ra những người bạn nầy nữa, họ biến mất .
Thực tế thì khi mọi việc hanh thông, chúng ta cảm thấy tự tin và có thể tự lo, chúng ta cảm thấy mình không cần bạn; nhưng khi địa vị và sức khỏe suy dần, thì chúng ta mới biết là mình lầm. Lúc ấy, ta sẽ biết được ai hữu dụng và ai vô dụng. Và để chuẩn bị cho lúc ấy, để cho có được những bạn tốt, ta cần phải thực tập tình vị tha ngay từ bây giờ.
Tôi hay nói là tôi lúc nào cũng cần bạn, càng nhiều càng tốt, và mọi người hay cười tôi về điều nầy. Tôi yêu những nụ cười. Có rất nhiều nụ cười, nụ cười mai mỉa, nụ cười gỉa tạo, nụ cười ngoại giao. Có những nụ cười không làm chúng ta hài lòng, mà đôi lúc còn làm ta sợ hãi, nghi ngờ, phải không nào ? Nhưng một nụ cười chân thật mang lại cho chúng ta bao là sự vui tươi, và tôi tin là, đây là đặc điểm của con người. Nếu đây là nụ cười mà ta mong muốn thì chính chúng ta phải làm sao để cho chúng được hiện diện.
Lòng từ bi và thế giới.
Để kết luận, tôi muốn nói thêm như sau : hạnh phúc cá nhân cũng góp phần không nhỏ trong việc làm cho xã hội con người tốt đẹp hơn.
Bởi vì tất cả chúng ta đều cần tình thương, vì thế khi gặp một người , dù trong trường hợp nào, chúng ta cũng có thể coi người đó như là anh, chị em của ta.
Cho dù đấy là một khuôn mặt mới, cách cư xử, cách ăn mặc cho dù có khác biệt, thật ra không có gì cách biệt giữa ta và người. Những nhu cầu căn bản tự nhiên của mọi người đều giống nhau. Vì vậy thật là điên rồ khi mà chỉ bám vào những khác biệt bên ngoài.
Cuối cùng thì con người chỉ là một và trái đất nhỏ bé nầy là nhà của chúng ta.
Để bảo vệ căn nhà của chúng ta, thì mỗi một người trong chúng ta cần phải kinh nghiệm được ý nghĩa của lòng vị tha.
Lòng ích kỷ làm cho ta chỉ biết lừa dối và bạc đãi người khác, muốn diệt trừ tính ích kỷ thì chỉ có cách phát triển tình vị tha. Nếu bạn thành thật và có tấm lòng rộng mở, tự nhiên bạn sẽ cảm nhận được niềm tự tin, hiểu rõ giá trị của chính mình và sẽ không còn sợ hãi nữa.
Tôi tin rằng mỗi giai cấp xã hội -- bình dân, bộ lạc, quốc gia, và ngoại quốc --chìa khóa cho một thế giới hạnh phúc, an lạc là phát triển lòng từ bi. Chúng ta không cần phải theo một tôn giáo nào, hay phải tin vào một lý tưởng gì, chỉ cần mỗi một người trong chúng ta phát triển hết những đức tính tốt của con người là đủ.
Tôi cố gắng cư xử với những người tôi gặp như một người bạn lâu năm. Điều nầy mang lại cho tôi một niềm vui chân chất. Và đây là lúc để chúng ta tạo một thế giới hạnh phúc hơn, an lạc hơn.
ĐẠO ĐỨC CỦA LÒNG TỪ BI
Nguyên tác: Đức Đạt Lai Lạt Ma – Chuyển ngữ: HT. Thích Trí Chơn
Trích từ cuốn sách: “Ethics for the New Millennium”
* * *
Như tôi đã trình bày trước đây là các tôn giáo lớn trên thế giới đều chú tâm đến sự quan trọng của việc phát triển tình thương và lòng từ bi. Trong truyền thống Phật giáo, các mức độ thành tựu khác nhau đã được diễn tả. Với trình độ căn bản, từ bi được hiểu theo nghĩa chủ yếu là thiện cảm – năng lực đi vào, và ở một mức độ nào đó, chia sẽ nổi đau khổ của người khác. Nhưng Phật tử và tín đồ các tôn giáo khác tin rằng, khả năng này có thể phát triển đến một trình độ không những tâm từ bi của chúng ta phát khởi không cần chút cố gắng mà còn vô điều kiện, vô phân biệt và phổ cập toàn cầu. Một tình thương bao trùm khắp cả chúng sinh muôn loài, kể cả những kẻ làm hại ta, chẳng khác gì thứ tình yêu của bà mẹ dành cho đứa con duy nhất.
Nhưng ý nghĩa về sự cảm mến này đối với tất cả mọi người không thể xem như dẫn đến một điểm kết thúc. Đúng hơn nó còn được hiểu như là một tấm ván nhún đẩy bật lên một tình thương cao cả hơn. Bởi vì khả năng của sự mến thương là bẩm sinh và năng lực của lý luận cũng vốn tự nhiên sẳn có. Do vậy, chúng ta có khả năng phát triển lòng từ bi rất kiên cố và liên tục. Nó không phải là nguồn tài nguyên có thể dùng đến khánh tận như nước khi ta đun sôi thì khô cạn.
Mặc dù từ bi có thể được diễn tả như một hoạt động, nhưng lại không giống như sinh hoạt vật lý, ví dụ như nhảy cao chúng ta chỉ có thể luyện tập đến một mức độ nào đó, chứ không thể vượt quá hơn được. Trái lại, khi nâng cao sự xót thương trước nổi khổ đau của người khác qua tấm lòng rộng mở của chúng ta cùng lúc phát triển được tâm từ bi đến mức độ có thể rất cảm động trước nổi khổ đau tinh tế nhất của kẻ khác vì nhận biết rõ trách nhiệm đối với họ. Điều này khiến cho người có tâm từ bi sẽ tích cực hết lòng cứu giúp mọi người thoát khổ và những nguyên nhân tạo khổ. Trình độ cao thượng này ở Tây Tạng được gọi là nying je chenno, có nghĩa là “đại từ bi”.
Ở đây, tôi không đưa ra ý kiến bảo rằng mỗi cá nhân đều cần phải đạt đến tình trạng tiến bộ của sự phát triển tinh thần này để dẫn đến một đời sống đạo đức lương thiện. Tôi đã diễn tả nying je chenno không phải vì đó là điều kiện trước hết của hành vi đạo đức nhưng đúng ra vì tôi tin rằng khi thúc đẩy lý luận về từ bi đến một trình độ cao nhất thì có thể tạo thành một nguồn cảm hứng mạnh mẽ. Nếu chúng ta có thể giữ khát vọng ấy để phát triển nying je chenno hay tâm đại bi như một lý tưởng, nó sẽ có tác dụng trọng yếu đến quan điểm của chúng ta.
Căn cứ trên sự hiểu biết đơn giản là, cũng như tôi, mọi người khác đều muốn có hạnh phúc và không thích khổ đau; bởi vậy cần ứng dụng nó như sự nhắc nhở thường xuyên chống lại tâm ích kỷ và phân biệt. Nó gợi ý rằng nếu ta có lòng tốt và rộng lượng với hy vọng sẽ được đền đáp thì kết quả thành tựu rất ít. Nó nhắc nhở rằng các hành động nhằm chủ đích mong cầu danh thơm tiếng tốt cho mình vẫn còn là ích kỷ, mặc dù bề ngoài việc làm trông như có vẽ nhân đạo. Nó cũng lưu ý chúng ta rằng chẳng có gì đặc biệt trong các việc làm từ thiện đối với những bà con thân thuộc. Và nó sẽ giúp chúng ta nhận biết rằng thành kiến dành cho các gia đình và bạn bè hẳn nhiên là điều không đáng tin cậy trong việc xác định hành vi đạo đức.
Nếu đặc biệt chúng ta chỉ dành thực hiện việc làm từ thiện giúp đỡ cho những người thân quen thì điều tai hại là có thể ta sẽ quên trách nhiệm đối với các người không quen biết xa lạ bên ngoài. Tại sao vậy? Bởi lẽ khi những cá nhân đó tiếp tục thoả mãn điều ước vọng của ta thì mọi việc đều tốt đẹp. Nhưng nếu họ không giúp ta thành công thì người mà hôm nay ta xem như bạn thân, ngày mai có thể trở thành kẻ thù tệ hại nhất.
Như chúng ta đã thấy, ta thường có phản ứng xấu đối với những người đe doạ không đáp ứng được các ham muốn cuồng nhiệt nhất, mặc dù họ là người bạn rất thân của chúng ta. Vì lý do đó, lòng từ bi và kính trọng lẫn nhau đưa ra một căn bản vững chắc hơn cho sự giao hảo giữa chúng ta với người khác. Điều này cũng đúng trong tình bạn đời. Nếu ta yêu một người vì sự lôi cuốn bề ngoài hay vài đặc điểm giả tạo nào khác của họ, thì tình cảm ta dành cho người đó sẽ dễ tan biến theo thời gian.
Khi họ đánh mất sức quyến rủ hay lúc ta nhận thấy nhàm chán bất mãn điều ấy, tình trạng có thể hoàn toàn thay đổi mặc dù cũng vẫn con người đó. Cho nên sự liên hệ yêu thương được xây dựng thuần tuý trên vẻ đẹp hấp dẫn, là điều không có gì chắc chắn. Hơn nữa, khi ta bắt đầu phát triển toàn hảo lòng từ bi thì bề ngoài hoặc thái độ của người đó không ảnh hưởng gì đến cách cư xử của ta.
Thêm nữa, tình cảm của ta đối với người khác thường hay dựa vào hoàn cảnh của họ. Phần đông chúng ta khi tiếp xúc với những kẻ tật nguyền đều cảm thấy xót thương cho họ. Nhưng khi thấy người nào có học thức, giàu sang hay địa vị hơn mình, lập tức ta sanh tâm ganh ghét và tranh đua với họ. Tình cảm tiêu cực này sẽ ngăn cản chúng ta không nhận biết được sự giống nhau giữa chúng ta và người khác. Chúng ta quên rằng, cũng như ta, dù gặp may hay rủi, bà con gần hoặc xa, họ đều mong có hạnh phúc và không thích khổ đau.
Như vậy, sự tranh đấu nhằm để vượt qua những tình cảm phân biệt đó. Chắc hẳn phát triển được lòng từ bi chân thật dành cho các người thân yêu vẫn là nơi thích đáng để khởi đầu. Ảnh hưởng hành động của chúng ta dành cho người quý mến vẫn thường lớn hơn trên những kẻ khác, do đó trách nhiệm của ta đối với họ cũng nặng hơn. Tuy nhiên, ta cần nhận biết rằng cuối cùng, không có nền tảng nào để phân biệt dành quyền ưu tiên cho họ.
Trong ý nghĩa này, tất cả chúng ta đều cùng đứng ở vị trí của một bác sĩ trước mười bệnh nhân cùng mắc phải một chứng bệnh. Họ đều đáng được chữa trị bình đẳng như nhau. Tuy nhiên, điều cần được nêu rõ ở đây không phải là thái độ thờ ơ phân biệt. Một thử thách căn bản khác là khi chúng ta khởi sự mở rộng lòng từ bi đến tất cả mọi người tức chúng ta duy trì được cùng một trình độ thân thương mà ta muốn mang đến cho những người gần gũi nhất. Nói khác, điều đề nghị là chúng ta cần phải cố gắng trong ý hướng dành cho tất cả mọi người một nền tảng trên đó chúng ta có thể gieo trồng hạt giống của tâm đại từ và đại bi.
Nếu chúng ta có thể khởi đầu liên hệ với những người khác trên căn bản bình đẳng như thế, lòng từ bi của chúng ta không còn phân biệt người này là chồng tôi, kẻ khác là vợ tôi hay thân nhân, bạn bè v..v…. Đúng hơn, một tình cảm thân thương đối với những kẻ khác sẽ phát triển trên nhận thức đơn giản là, cũng như tôi, tất cả mọi người đều muốn hạnh phúc chứ không thích khổ đau. Nói cách khác, chúng ta sẽ bắt đầu thương yêu kẻ nghèo khó trên căn bản họ là một chúng sanh. Chúng ta có thể nghĩ đến điều ấy như một lý tưởng, một điều rất khó đạt tới. Nhưng theo tôi nghĩ, đó là nguồn cảm hứng rất sâu xa và phúc lạc.
Bây giờ ta thử xét đến vai trò của tâm từ bi và tình thương trong cuộc sống hằng ngày. Phải chăng lý tưởng phát triển nó đến mức độ trở thành vô điều kiện nghĩa là ta phải dứt bỏ hoàn toàn các quyền lợi cá nhân? Không hẳn thế. Ngược lại, đó là phương cách tốt nhất để phục vụ chúng sanh. Có thể bảo đó là xây dựng sự tự lợi sáng suốt nhất? Bởi lẽ nếu bảo rằng các đức tính như tình thương, nhẫn nhục, khoan dung và tha thứ bao gồm hạnh phúc con người trong đó là đúng hay nếu nói rằng lòng từ bi vừa là nguồn gốc và kết quả của những thiện tánh trên cũng hoàn toàn không sai chút nào; nếu như vậy, khi tâm ta càng từ bi, thì ta lại càng có nhiều hạnh phúc. Do đó, mọi ý tưởng liên hệ đến các người khác, nếu nhằm mục đích lợi ích cho đời sống cá nhân thì dù đó là đức tánh cao thượng, vẫn trở thành hẹp hòi và thiển cận. Tâm từ bi nằm trong mọi lãnh vực của sinh hoạt, và dĩ nhiên bao gồm cả nơi chúng ta làm việc.
Ở đây, tôi muốn đưa ra một nhận thức được nhiều người nhìn nhận là từ bi, nếu không phải là một trở ngại, thì ít ra cũng là điều không thích hợp cho đời sống nghề nghiệp. Cá nhân tôi nghĩ rằng chẳng những thích hợp mà nếu thiếu tâm từ bi, sinh hoạt của chúng ta sẽ bị đe doạ huỷ diệt. Bởi vì khi ta không biết đến vấn đề ảnh hưởng của hành động đối với sự an lạc của người khác, ta có thể làm hại đến họ. Luân lý của từ bi giúp ta xây dựng một nền tảng và sự thúc đẩy cần thiết cho cả hành động kiềm chế lẫn trau giồi đức hạnh. Khi ta khởi đầu thực sự biết quý trọng giá trị của từ bi, quan điểm của ta đối với người khác tự động sẽ thay đổi. Chỉ riêng điều này có thể tạo một ảnh hưởng mạnh mẽ đến tư cách đạo đức trong đời sống chúng ta.
Chẳng hạn như khi cám dỗ của sự lường gạt kẻ khác khởi dậy, lòng từ bi dành cho họ sẽ ngăn cản không cho chúng ta thực hiện ý định xấu ấy. Và khi nhận biết rằng việc làm của mình đang có nguy cơ bị lợi dụng để gây tổn hại cho người khác, tâm từ bi sẽ giúp ta ngừng không làm điều đó. Hảy tưởng tượng trường hợp một khoa học gia đang nghiên cứu một đề án nhằm gây đau khổ cho đồng loại, nhờ từ bi, họ sẽ nhận ra và hành động thích đáng, ngay cả có thể huỷ bỏ luôn kế hoạch tàn ác ấy. Trái lại nếu nhà khoa học tiếp tục hành động theo chiều hướng làm tổn hại cho tha nhân, có thể tạo thành các hậu quả bất lợi cho chính họ và gia đình.
Cũng thế, những người làm các dịch vụ chăm sóc y tế; cố vấn, công tác xã hội vân vân hoặc ngay cả các nhân viên chăm nom người già tại nhà, đôi khi cảm thấy mệt mõi vì công việc vượt quá sức mình. Sự thường xuyên tiếp xúc với nổi khổ đau, đôi khi sẽ tạo nên một ý tưởng như bắt buộc chịu đựng, có khi đưa đến cảm thấy bất lực và tuyệt vọng. Hoặc có thể xảy ra điều cá nhân làm việc từ thiện đó chỉ vì công tác phải làm hay hành động chỉ theo nhu cầu đòi hỏi. Điều này dĩ nhiên còn tốt hơn không làm gì hết.
Nhưng nếu không tự kiểm thảo, việc này có thể dẫn đến sự mất cảm giác đối với nổi khổ đau của người khác. Nếu nó bắt đầu xảy ra, tốt hơn là nên tạm ngưng bỏ một thời gian, và nỗ lực thận trọng hầu đánh thức tính dễ cảm xúc đó. Trong vấn đề này, cần nên nhớ rằng tuyệt vọng không bao giờ là một giải pháp tốt. Đúng hơn, điều ấy là sự thất bại hoàn toàn. Cho nên, một thành ngữ Tây Tạng nói rằng, dù cho sợi dây bị đứt làm chín khúc, ta cũng phải cố gắng nối lại mười lần. Bằng cách đó, dù cuối cùng ta vẫn thất bại, ít ra ta sẽ không có điều gì hối tiếc. Và khi phối hợp cái nhìn này cùng với sự nhận thức rõ ràng về khả năng giúp đỡ người khác của mình, chúng ta có thể bắt đầu phục hồi niềm hy vọng và tự tin.
Vài người có thể phản đối lý tưởng này trên căn bản là khi dấn thân cứu khổ tha nhân, ta sẽ rước khổ luỵ vào cho chính mình. Ở một giới hạn nào đó, điều ấy đúng. Nhưng tôi bày tỏ rằng, có sự phân biệt chủ yếu giữa kinh nghiệm khổ đau của chính ta và kinh nghiệm đau khổ khi chia xẽ cùng người khác. Trong trường hợp nổi khổ của riêng ta, dù là không phải tự nguyện, vẫn có một cảm nghĩ bị áp chế: dường như nó đến từ bên ngoài ta. Trái lại, chia xẽ nổi khổ đau cùng người khác, với một trình độ tự nguyện nào đó, nhưng tự nó cho thấy có một thứ nội lực. Bởi lý do đó, sự phiền bực do nó tạo nên còn ít khốc liệt hơn là sự đau khổ của riêng ta.
Hẳn nhiên, dù là một lý tưởng, ý niệm về phát triển lòng từ bi vô điều kiện, rất dễ gây cho ta sự nản lòng. Phần đông mọi người, kể cả tôi, phải tranh đấu mới có thể dễ dàng đạt tới trình độ đặt lợi ích của kẻ khác ngang bằng với quyền lợi của mình. Tuy nhiên, chúng ta không thể để cho điều ấy khiến ta thối tâm bỏ cuộc. Và trong khi chắc chắn có nhiều trở ngại trên con đường phát huy một cõi lòng rộng mở, ta lại có một nguồn an ủi sâu xa khi biết rằng hành động như thế là ta đang tạo các điều kiện cho hạnh phúc của chính mình.
Như tôi đã nói trên, khi ta càng thực lòng muốn cứu giúp kẻ khác thì năng lực và tự tin càng được phát huy, và ta sẽ có kinh nghiệm càng lớn lao về sự an lành và hạnh phúc. Nếu không phải vậy, thì chúng ta tự hỏi thử còn có phương cách nào khác chăng? Với bạo lực và gây hấn? Dĩ nhiên là không. Với tiền tài? Có thể đạt tới một mức nào đó, nhưng không xa hơn. Nhưng với tình thương, chia xẽ nổi đau khổ của người khác, nhận thức rõ ràng chúng ta và những người khác là một – đặc biệt là những kẻ không may mắn và nhân quyền bị tước đoạt – bằng cách giúp đỡ họ có hạnh phúc: đúng vậy. Qua tình thương, lòng nhân đạo và qua từ bi, chúng ta xây dựng sự thông cảm, hiểu biết giữa ta và người. Đó là cách rèn luyện sự đoàn kết và hoà hợp.
Lòng từ bi và tình thương không phải là các xa xỉ phẩm. Đó là nguồn an lạc trong nội tâm lẫn bên ngoài. Chúng là nền tảng cho sự sống liên tục của con người. Một mặt chúng tạo dựng việc làm bất bạo động. Mặt khác, chúng là nguồn gốc của các đức tính tâm linh như tha thứ, khoan dung và từ bi hỷ xả vân vân. Hơn nữa, đây hẳn là điều xây dựng, mang lại ý nghĩa cho mọi sinh hoạt của ta. Không có gì tự đắc khi học cao, không có gì kiêu hãnh khi giàu sang phú quý. Chỉ có con người với một tâm hồn vị tha mới có thể làm các điều hữu ích thực sự có giá trị.
Đối với những người nghĩ rằng đức Đạt Lai Lạt Ma không thực tế khi biện luận cho lý tưởng về tình thương vô điều kiện, tôi mong rằng họ hãy thử kinh nghiệm với nó. Họ sẽ phát hiện, nhận ra rằng khi chúng ta sống vượt lên trên sự ích kỷ hẹp hòi của điều lợi ích cá nhân, trái tim của ta sẽ rộng mở ngập tràn tình thương. Sự an lạc và hạnh phúc sẽ trở thành bạn hữu thường xuyên của ta. Nó phá tan các chướng ngại và cuối cùng tiêu diệt hành động vị kỷ là điều chống trái lại với tánh lợi tha. Nhưng quan trọng nhất, trên phương diện đạo đức, nơi nào có tình thương, sự quý mến, lòng tốt và tâm từ bi dành cho đồng loại, nơi đó tự động sẽ có hành vi đạo đức. Các hành động luân lý phước thiện tự nhiên phát sinh trong khuôn khổ của từ bi.
Nguyên tác: Đức Đạt Lai Lạt Ma - Chuyển ngữ: HT. Thích Trí Chơn
Trích từ cuốn sách: “Ethics for the New Millennium
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét