Thứ Bảy, 14 tháng 7, 2012

2012 Sự kỳ diệu Việt Nam

Sự kỳ diệu Việt Nam

Cập nhật: 15:53 GMT - thứ năm, 12 tháng 7, 2012
Việt Nam
Tạp chí có uy tín Foreign Policy xuất bản tại Hoa Kỳ vừa có bài viết của tác giả Geoffrey Cain, tựa đề "Kết thúc sự kỳ diệu Việt Nam", nói về tình hình kinh tế không mấy lạc quan ở đây. BBCVietnamese.com xin giới thiệu cùng quý vị.
Bài viết bắt đầu bằng câu chuyện của một doanh nghiệp nhỏ, mà ông chủ tên là Nguyễn Văn Nguyên "chỉ thấy tương lai ảm đạm". Chuyên sản xuất mành trúc, công ty Bình Minh của ông đang vật lộn với lạm phát đi lên trong khi lượng đặt hàng từ nước ngoài đi xuỗng vì suy thoái kinh tế thế giới.
Các công nhân của ông Nguyên bị giảm lương từ mức chừng 200 đôla xuống 120 đôla, và ông cũng thuê mướn ít người hơn trước.
"Đảng Cộng sản Việt Nam muốn các nhà đầu tư xem trường hợp ông Nguyên như một ca đơn lẻ và bị ảnh hưởng của sụt giảm kinh tế toàn cầu, hơn là sự yếu kém về hệ thống."
Tác giả nhắc lại rằng kể từ khi bắt đầu tiến trình Đổi mới, Việt Nam đã tăng trưởng nhanh mạnh, và cho tới tận khoảng bốn năm trước đây vẫn còn được nhắc tới như một trong các hình mẫu thành công của Á châu.
Khi gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới năm 2007, lãnh đạo Việt Nam đã đưa ra cam kết tái cấu trúc nền kinh tế cũng như cải tổ lại khối doanh nghiệp nhà nước vốn bị cho là thiếu hiệu quả và lãng phí thông qua tiến trình cổ phần hóa.
Quỹ Tiền tệ Quốc tế từ năm 2007 cũng đưa ra dự báo rằng cải cách hệ thống kinh tế sẽ tạo sân chơi công bằng cho các doanh nghiệp trong và ngoài nước.
Với đầu tư nước ngoài đổ vào trong những năm 2000, đầu tư năm 2008 tăng gấp ba so với mức năm 2006, Việt Nam từng được Goldman Sachs ví như "con hổ châu Á đang dần thành hình".
Thậm chí có nhà phân tích ờ Mỹ còn bình luận: "Các nhà đầu tư ngoại quốc không quan tâm tới điều hành hay chính sách. Họ coi giá nhân công rẻ là động lực".

Cái nhìn thiển cận và đắt giá

Việc tảng lờ chính trị để tập trung vào khía cạnh kinh tế, theo Geoffrey Cain, là "thiển cận và đắt giá".
Một Việt Nam của năm 2012, với đồng nội tệ yếu ớt, lạm phát cao, nạn quan liêu và chủ nghĩa thân hữu, dẫn tới thiệt hại hàng tỷ đô la, là điều ít người lường trước được.
Tác giả bài viết cũng nhắc tới các quyết định kinh tế khó hiểu của chính phủ, như "xây các cảng biển hay đường xá ở những nơi kỳ quặc, không có giá trị về kinh tế".
Tình hình bắt đầu trở nên tồi tệ khi Việt Nam tung ra chương trình hỗ trợ tín dụng 100 tỷ đôla trong các năm 2007-2010, nhưng thay vì hướng về các doanh nghiệp tư nhân thì nguồn vốn lại được chuyển tới các doanh nghiệp nhà nước có quan hệ với chính giới, để các công ty này mở ra hoạt động trong các lĩnh vực bên ngoài, gây áp lực lạm phát.
"Các Đảng viên Cộng sản bị mắc chứng bệnh sợ hãi phải chia sẻ quyền lợi với các công ty tư nhân, nhất là những doanh nghiệp nước ngoài."
Quá nhiều tiền, các doanh nghiệp nhà nước này đã chèn ép các đối thủ cạnh tranh nhỏ hơn và hoạt động hiệu quả hơn.
Tổng công ty tàu thủy Vinashin, với 60.000 công nhân viên và 28 xưởng đóng tàu, mở ra tới 300 công ty con bao gồm từ sản xuất xe máy tới kinh doanh khách sạn.
Năm 2010, Vinashin bị phát giác gian dối trong tài chính và gần như sụp đổ dưới khoản nợ 4,4 tỷ đôla, tương đương 5% GDP của Việt Nam. Tập đoàn này cũng không trả được khoản vay 400 triệu đôla do Credit Suisse môi giới.
Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng, người từng bảo trợ cho Vinashin, buộ̣c phải xin lỗi trước Quốc hội trong một phiên tự phê trong khi các đối thủ của ông như tìm thấy con dê tế thần. Tám lãnh đạo tập đoàn Vinashin nhận án tù tháng Ba vừa qua.
Thế nhưng thay vì tăng cường tiến trình tư nhân hóa hứa hẹn từ những năm 1990, vụ Vinashin dường như bị vùi lấp.
Các vụ đổ bể tương tự Vinashin còn nhiều, nhưng những mạng lưới bù đắp bí mật đã cho phép những tập đoàn này che đậy những thống kê yếu kém hàng năm trời, theo kết quả phỏng vấn những biên tập viên các báo chính thống vào năm 2011.
Vào tháng Năm 2012, một cuộc điều tra của chính phủ đã phát hiện ra tập đoàn tàu thủy Vinalines mất khả năng trả năm món nợ tổng giá trị lên đến 1,1 tỷ đôla cùng với một khoản nợ tích lũy lên đến 2,1 tỷ đôla, gấp bốn lần giá trị tổng khối tài sản của họ.
Từ tháng Hai, bốn lãnh đạo đã bị bắt giam vì bê bối trong quản lí vốn Nhà nước. Trong lúc đó, chính quyền Việt Nam vẫn tiếp tục săn lùng Chủ tịch cũ của tập đoàn này.

Mất thế mạnh

Các nhà đầu tư nước ngoài, vốn đang đối mặt với giá lao động và vật liệu ngày càng tăng cao đang bắt đầu lo ngại rằng Việt Nam đang mất đi thế mạnh giá cả. Bốn nhà đầu tư nước ngoài đã phàn nàn trong những buổi phỏng vấn hai năm trước rằng những tập đoàn Nhà nước đã thao túng vị trí người giữ cửa ngành công nghiệp của Chính phủ.
"Họ thật là phiền toái", một luật sư doanh nghiệp tại thành phố Hồ Chí Minh cho biết. "Không ai muốn phải dính dáng vào những người này cả"
Trong khi những nhà cầm quyền Việt Nam đang tìm cách trấn an những nhà đầu tư rằng thời khắc tồi tệ nhất đã qua, bản thống kê của Chính phủ được công bố vào tháng Sáu cho thấy có ít nhất 30 tập đoàn Nhà nước nữa đang phải đứng trước những gánh nặng nợ ngoài tầm kiểm soát
Một vấn đề tiềm ẩn nữa đó là Việt Nam không giống như Trung Quốc. Các Đảng viên Cộng sản bị mắc chứng bệnh sợ hãi phải chia sẻ quyền lợi với các công ty tư nhân, nhất là những doanh nghiệp nước ngoài.
Ở Trung Quốc, chính quyền nói chung vẫn tìm cách giữ tính cạnh tranh cho các thị trường bằng cách thu hút các doanh nghiệp tư nhân, cải cách quản lý, tư hữu hóa hơn 90.000 tập đoàn có giá trị hơn 1,4 nghìn tỷ đôla giữa thời điểm năm 1998 và 2005 và gần đây nhất là việc loại trừ những kẻ đội lốt Mao Trạch Đông thời hiện đại như Bí thư Trùng Khánh Bạc Hy Lai.
"Các lãnh đạo Việt Nam vẫn chưa tìm ra cách để sửa chữa nền kinh tế của mình mà không phải từ bỏ bớt quyền lực chính trị - một bước đi mà họ không sẵn sàng thực hiện."
Các lãnh đạo Việt Nam vẫn chưa tìm ra cách để sửa chữa nền kinh tế của mình mà không phải từ bỏ bớt quyền lực chính trị - một bước đi mà họ không sẵn sàng thực hiện.
Thay vào việc dọn dẹp đống tơ nhện giữa các doanh nghiệp nhà nước và những nhà chính trị đỡ đầu của họ, những người nắm quyền lực lại khởi đầu một chiến dịch chống lại một thế hệ doanh nghiệp kiêm lập pháp gia mới phất lên.
Vào cuối tháng Năm, Quốc hội đã bầu 96% phiếu thuận để bãi nhiệm Đại biểu Đặng Thị Hoàng Yến, một trong số ít ỏi những nhà tư bản không nằm trong bộ phận chính phủ khi cơ quan lập pháp buộc tội bà gian dối về lời khai trong hồ sơ cá nhân.
Tội lỗi thực sự của bà Yến: liên tục kêu gọi những chính sách công bằng đối với các doanh nghiệp tư nhân, vốn chiếm hơn một nửa nền kinh tế.
"Làm sạch hệ thống là một điều mà chính quyền bây giờ không thể kham nổi" - Ông David Brown, một cựu quan chức ngoại giao người Mỹ tại Hà Nội cho biết.
Vào tháng Sáu, việc Chính phủ thắt chặt tín dụng đã giúp giảm lạm phát từ 23% tháng Tám năm ngoái xuống 6,9%. Vấn đề lúc này là vấn nạn tín dụng lỏng lẻo đã tăng cao những nguy cơ khủng hoảng ngân hàng.
Sau hai vụ sụp đổ kinh hoàng của hai doanh nghiệp Nhà nước, Chính phủ đã phải thừa nhận rằng hệ thống tài chính của mình có vấn đề.

Tăng quan liêu

Thống đốc Ngân hàng Trung ương Nguyễn Văn Bình nói vào tháng Sáu rằng hết 10% nợ tại các Ngân hàng Việt Nam là nợ xấu. Thay vì cải cách nền kinh tế, Chính phủ đang đưa ra những cách giải quyết không có gì mới: kế hoạch xây dựng một Ủy ban quản lý tài sản với số vốn 4,8 tỷ đôla để đối phó với các khoản nợ.
 
Nền kinh tế đang èo uột lại thêm nợ xấu
Tuy nhiên điều này chỉ có nghĩa là lại có thêm một bộ máy quan liêu đặt trong một hệ thống bảo trợ giữa những lãnh đạo cấp cao, các ngân hàng và các công ty.
Ông Denny Cowger, một luật sư doanh nghiệp tại hãng luật Duane Morris của Mỹ có chi nhánh tại Hà Nội và TP Hồ Chí Minh cho biết những nhà đầu tư hiện tại rất phàn nàn về những gánh nặng của nạn quan liêu, và rất nhiều người hiện tại đang tính đến việc chuyển đến Indonesia, Bangladesh và Myanmar.
Trong báo cáo của Diễn đàn Kinh tế Thế giới năm 2011 và 2012, Việt Nam đã tụt mất sáu hạng từ hạng 65 bởi vì những gánh nặng liên quan đến pháp luật, lạm phát, thâm hụt ngân sách và sự xuống cấp của hạ tầng cơ sở. Diễn đàn này tuy nhiên cũng đã có lời tán dương một thị trường lao động "khá hiệu quả" và những tiềm năng cải tiến.
Trong lúc đó, lĩnh vực quốc doanh vẫn ngấu nghiến hết đến 40% GDP.
"Kết luận cuối cùng đó là Việt Nam cần phải tiến hành những cải cách kinh tế quốc nội cơ bản để có thể đảm bảo tính cạnh tranh" - Ông Carl Thayer, một giáo sư có uy tín tại trường Đại học New South Wales cho biết.
"Tuy nhiên những nhà lãnh đạo của Việt Nam sẽ tiếp tục sử dụng vấn đề khủng hoảng kinh tế toàn cầu như một lời bào chữa cho thực trạng không mấy thay đổi." - ông này thêm.

Điều gì đang diễn ra với nền kinh tế VN?

Cập nhật: 15:11 GMT - thứ tư, 11 tháng 7, 2012
Tình hình kinh tế Việt Nam bấy lâu nay có nhiều biến động với nhiều luồng thông tin trái chiều, khiến dân và thậm chí cả giới phân tích rất khó để có thể thực sự định hình được những gì đang diễn ra trong nền kinh tế.
Một mặt là những con số rất lạc quan của chính phủ rằng tăng trưởng sẽ đạt mức trên 5-6% cho cả năm 2012, lạm phát đi xuống một cách đáng kể từ 18% xuống còn 7% kèm theo việc mở rộng những chính sách tiền tệ khiến cho lãi suất ngân hàng hiện giờ giảm chỉ ở mức trên dưới 15%/năm tạo điều kiện vốn cho các doanh nghiệp.
Mặt khác, vẫn có những báo cáo liên tiếp về thâm hụt thương mại cùng với các khoản vay khổng lồ của chính phủ khiến cho nợ nước ngoài càng ngày càng cao, hay tỉ lệ nợ xấu trong khối ngân hàng cũng tăng một cách đáng kể.
Các doanh nghiệp vẫn tiếp tục kinh doanh thua lỗ, trên bờ vực phá sản, hay đã phá sản trong thời gian gần đây.
Những dự báo về giảm phát là hoàn toàn có cơ sở khi môi trường kinh doanh khó khăn khiến cho tỷ lệ thất nghiệp gia tăng.
Điều đó cũng sẽ đồng nghĩa với một nền kinh tế thay vì tăng trưởng thì ngược lại đang rơi vào suy thoái, khi mà giá cả giảm xuất phát từ sức mua yếu do người dân không còn có khả năng để chi trả và đã nghèo đi một cách đáng kể.
Những con số
Hiện chưa rõ số nợ xấu cho vay bất động sản trong toàn bộ hệ thống ngân hàng và tín dụng.
Tuy nhiên, những con số thống kê dường như đang mâu thuẫn và không phản ánh đúng bản chất của nền kinh tế, đặc biệt là khi với số doanh nghiệp thua lỗ chờ phá sản và đã phá sản trong khoảng 6 tháng đầu năm nay đã lên tới hàng chục nghìn.
Mặc dù các số liệu từ tổng cục thống kê cho thấy tỉ lệ thất nghiệp ở Việt Nam chỉ ở mức 2.29%, con số này là quá thấp so với số lượng các doanh nghiệp đang giải thể hàng loạt trong khoảng hơn 1 năm gần đây.
Ở một quốc gia với hơn 80% dân số sống bằng nông nghiệp, phải chăng một lực lượng lớn lao động nông nhàn ở nông thôn cũng được tính là không thất nghiệp?
Trong khoảng 3 năm trở lại đây, khi thị trường chứng khoán – thước đo sức khoẻ của nền kinh tế - mất 30-40% giá trị, người ta tự hỏi những con số về tăng trưởng ở mức trên dưới 6%/năm là do đâu?
Với lượng của cải vật chất làm ra trong xã hội thấp đi trông thấy cùng với sự giảm sút của tổng cầu và thâm hụt trong cán cân thương mại thì con số tăng trưởng 4.38% trong 6 tháng vừa qua, hay thậm chí là một mức tăng trưởng dương dường như là rất phi lý.
"Trong khi khối ngân hàng và các nhà đầu tư bất động sản đạt được những lợi nhuận khổng lồ bằng việc đầu cơ, quả bong bóng bất động sản này không hề tạo ra những giá trị thực sự cho phát triển kinh tế như khối sản xuất"
Cũng có thể giải thích rằng mức tăng trưởng này đạt được do sự đầu cơ trên thị trường bất động sản và tài chính ngân hàng đã thổi phồng lên những bong bóng giá trị cho những dự án đầu tư, quy hoạch các khu đô thị mới, chung cư cao tầng, biệt thự sang trọng, mà phần nhiều trong số đó đang trở thành những khu đất bỏ hoang không ai ở do nhu cầu thực sự là không cao.
Trong khi khối ngân hàng và các nhà đầu tư bất động sản đạt được những lợi nhuận khổng lồ bằng việc đầu cơ, quả bong bóng bất động sản này không hề tạo ra những giá trị thực sự cho phát triển kinh tế như khối sản xuất.
Các yếu tố tích cực khác có thể ảnh hưởng đến nền kinh tế như đầu tư nước ngoài là thiếu bền vững.
Chi tiêu của chính phủ chủ yếu dựa trên việc in tiền kể từ sau thảm họa Vinashin khiến chính phủ Việt Nam gần như bất lực trong việc phát hành trái phiếu quốc tế cũng tiềm tàng nhiều nguy cơ bất ổn cho nền kinh tế.
Từ nơi quán nước vỉa hè với những bài vè mang đậm màu sắc châm biếm đến những bản báo cáo từ phòng máy lạnh của chính phủ và các ngân hàng đầu tư đang có những sự bất đồng sâu sắc.
Nhóm lợi ích
Tổng bí thư Trọng đã nói về điều ông gọi là "tư duy nhiệm kỳ" và "nhóm lợi ích".
Cũng có thể hiểu rằng các chính sách của chính phủ để điểu chỉnh kinh tế sẽ mất một thời gian để phát huy tác dụng. Nhưng nhiều chuyên gia phân tích vẫn đang thật sự hoài nghi về tính đúng đắn của các chính sách này.
Nếu như việc khống chế lãi suất tương tự như Ngân Hàng Trung Ương Mỹ sử dụng từ khủng hoảng kinh tế 2008 đến nay đã tỏ ra rất hữu hiệu trong việc hỗ trợ các doanh nghiệp và duy trì tăng trưởng cũng như đang trở thành xu thế chung về mặt chính sách khi đương đầu với khủng hoảng, một chính sách tương tự đã không được chính phủ Việt Nam sử dụng cho đến vài tuần trước đây.
"Có lẽ mấu chốt phải là cân bằng được quyền lợi của các nhóm đại gia ngân hàng, bất động sản, doanh nghiệp nhà nước được rất nhiều hậu thuẫn của chính phủ với khối doanh nghiệp tư nhân và phần lớn người dân"
Ngược lại, lãi suất trong nước được thả trôi nhiều lúc lên tận 20-25% và lãi suất dưới gầm bàn cho doanh nghiệp muốn vay vốn thậm chí còn cao hơn khiến doanh nghiệp khốn đốn.
Tuy vậy, giảm lãi suất một cách nhanh chóng và đột ngột chưa chắc đã đi cùng với việc doanh nghiệp có thể hay thậm chí là muốn tiếp cận với nguồn hỗ trợ vốn từ ngân hàng.
Cùng với những dự báo về giảm phát và suy thoái, việc giảm lãi suất đột ngột trong hệ thống ngân hàng sẽ không những không thúc đẩy được phát triển kinh tế mà thậm chí còn có thể gây ra hiện tượng bẫy thanh khoản (liquidity trap) như trong nền kinh tế Nhật Bản trong thập niên 1990 khi người dân sẽ thích giữ tiền mặt hơn gửi tiết kiệm khiến cho hệ thống ngân hàng trở nên thiếu vốn. Không những đầu tư cá nhân sẽ giảm, điều này còn sẽ dẫn đến nhiều hơn những sự ưu tiên về vốn cho doanh nghiệp nhà nước mà phần lớn vốn đã làm ăn thiếu hiệu quả nhưng luôn có sự bảo trợ từ nhà nước từ việc in tiền.
Doanh nghiệp tư nhân nhiều khả năng là vẫn sẽ gặp khó khăn hay sẽ phải vay với lãi suất cao hơn gấp nhiều lần. Khi trần lãi suất huy động thấp hơn nhiều so với lãi suất cho vay, các nhóm lợi ích tài chính ngân hàng sẽ càng được lợi trên sự khốn đốn của doanh nghiệp.
Bài toán giải quyết nền kinh tế Việt Nam để cứu các doanh nghiệp sản xuất người tạo ra của cải vật chất cho xã hội hiện giờ là một bài toán khó. Song song với các chính sách tiền tệ, cần phải có những chính sách tài khoá, giảm đầu tư công không hiệu quả và thay vào đó là đầu tư nhiều vào khu vực tư nhân.
Có lẽ mấu chốt phải là cân bằng được quyền lợi của các nhóm đại gia ngân hàng, bất động sản, doanh nghiệp nhà nước vốn đã được rất nhiều hậu thuẫn của chính phủ với khối doanh nghiệp sản xuất tư nhân và phần lớn người dân đã phải chịu nhiều thiệt thòi với những chính sách kinh tế đáng thất vọng suốt vài năm qua.
Bài viết phản ánh quan điểm riêng của tác giả, sinh viên Đại học Cornell, chuyên ngành Triết Học - Chính Trị - Kinh Tế.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét