Thứ Tư, 28 tháng 8, 2013

2013 Lê Hiếu Đằng-

Sau hơn 45 năm chiến đấu trong hàng ngũ Đảng Cộng sản Việt Nam, với 45 tuổi Đảng, những trải nghiệm cay đắng mà tôi cùng nhiều bạn bè nữa trong phong trào học sinh sinh viên trước 1975 đã chịu đựng, thôi thúc tôi phải “thanh toán”, “tính sổ” lại tất cả. Trong lúc nằm bịnh tôi đọc quyển Chuyện nghề của Thủy của đạo diễn Trần Văn Thủy, các truyện của các nhà văn quân đội như Nguyễn Khải, Nguyễn Minh Châu, Lê Lựu, Trần Dần và qua ti vi xem các chuyến đi thăm Mỹ của Chủ tịch nước Trương Tấn Sang, Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Sinh Hùng thăm Hàn Quốc, Myanmar (Miến Điện) lại càng giục giã tôi viết những dòng này. Các nhà văn đã cho tôi thấy thêm sự bi thảm của thân phận con người trong cái gọi là CNXH ở Miền Bắc, một xã hội không có bóng người. Chuyến đi của Chủ tịch nước Trương Tấn Sang không có những nghi thức cao nhất của một nguyên thủ quốc gia hay chuyến đi thăm Hàn Quốc, Myanmar của Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Sinh Hùng nếu đem so sánh các chuyến đi thăm Trung Quốc của các vị thì không khí hoàn toàn khác nhau. Một bên thì khô cứng, lạnh lùng của một nước lớn đầy tham vọng, một bên là không khí cởi mở, vui vẻ bình đẳng. Không biết các nhà lãnh đạo của ĐCS Việt Nam với lòng tự trọng dân tộc có “mở mắt” thấy điều đó không? Hẳn nhiên chúng ta không thể đòi hỏi Mỹ làm nhiều điều tích cực hơn bởi vì công bằng mà nói anh không thể “mở lòng” với một nước mà thái độ không rõ ràng, bất nhất.
Tất cả tình cảm của gia đình và bạn bè trong nước cũng như ở nước ngoài làm tôi suy nghĩ miên man trong lúc nằm bịnh càng khẳng định với tôi một điều: con đường mà tôi cùng nhiều bạn bè, đồng đội đã lựa chọn, con đường tiếp tục đấu tranh cho lý tưởng thời trai trẻ và một xã hội công bằng tự do dân chủ. Ở đó con người sống với nhau một cách tử tế, thật sự được giải phóng từ người nô lệ thành người làm chủ của đất nước. Tôi ngày càng hiểu sâu sắc từ “GIẢI PHÓNG” không có nghĩa như ngày nay người ta thường dùng mà là sự thoát xác thật sự làm người tự do dù cho người cai trị là da trắng hay da vàng, thậm chí điều đau khổ, bi thảm nhất là hệ thống cai trị chính là người của dân tộc đó, là Việt Nam, là Trung Quốc, v.v. Nếu hiểu từ giải phóng theo ý thức sâu xa đó thì tôi cũng rất đồng tình với nhận xét của nhiều nhà báo, nhà văn, học giả ở Miền Bắc, trong đó có nhà báo Huy Đức trong cuốn Bên thắng cuộc mới đây. Thật sự là Miền Nam đã giái phóng Miền Bắc trên tất cả các lĩnh vực nhất là kinh tế, văn hóa, tư tưởng… Vì những lẽ trên tôi xin “tính sổ” với ĐCS VN và với bản thân cuộc đời của tôi, tư cách một đảng viên, một công dân ở những điểm cơ bản sau: một cách minh bạch, sòng phẳng để từ đây thanh thản dấn thân vô cuộc chiến mới.
1.    Vì sao tôi đi kháng chiến, vào ĐCS Việt Nam?
Vào thế kỉ trước, chủ nghĩa Marx, CNXH, CNCS đã làm say mê biết bao trí thức, văn  nghệ sĩ ở các nước, nhất là ở nước Pháp, cái nôi của khuynh hướng xã hội, dân chủ mà cả thời kỳ ánh sáng với các tên tuổi như Montesquieu, Voltaire, Jean Jacques Rousseau, v.v. với khát vọng xây dựng một xã hội bác ái, tự do, bình đẳng. Chủ nghĩa Marx, CNXH, CNCS chẳng những lôi cuốn, làm say mê nhiều thế hệ trí thức phương Tây mà ở Việt Nam cũng vậy. Những tri thức văn nghệ sĩ tên tuổi lẫy lừng như Văn Cao, Xuân Diệu, Huy Cận, Nguyễn Đình Thi, Tô Hoài, Thanh Tịnh, Thế Lữ, v.v. hay những trí thức tên tuổi ở nước ngoài như Trần Đức Thảo, Nguyễn Mạnh Tường. Thật ra họ theo lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến của HCM mà đi vào chiến khu chứ họ ít hoặc chưa biết chủ nghĩa Marx là gì, CNXH ra sao, nhưng họ hy vọng sau khi kháng chiến thành công sẽ xây dựng một xã hội dân chủ, tiến bộ xã hội, tự do, hạnh phúc mà trong Tuyên ngôn độc lập và Hiến pháp năm 1946 ông HCM đã trịnh trọng cam kết trước toàn dân giữa Ba Đình lịch sử. Lòng yêu nước, lòng tự trọng dân tộc đã thúc đẩy mọi người tham gia Cách mạng tháng 8 và sau đó đi kháng chiến. Bạn bè tôi và bản thân tôi cũng bị thôi thúc bởi những tình cảm đó: lòng yêu nước, ý chí chống xâm lược, giành độc lập tự do dân chủ cho Tổ quốc để xây dựng một xã hội tốt đẹp hơn các chế độ cũ ở đó công nhân, nông dân, người lao động, những người hi sinh nhiều trong chiến tranh có cuộc sống ấm no, hạnh phúc đã thôi thúc chúng tôi lên đường. Tôi vào Đảng cũng rất đơn giản: năm 1966, anh Nguyễn Ngọc Phương (Ba Triết) phụ trách đơn tuyến tôi, hẹn tôi gặp nhau ở một chùa trên đường Trần Quốc Toản (nay là 3-2) để sinh hoạt. Anh Nguyễn Ngọc Phương nghiêm mặt tuyên bố: “Đ/c Bắc Sơn (bí danh của tôi lúc đó), đ/c từ nay là Đảng viên Đảng nhân dân cách mạng (thực chất là Đảng Lao động Việt Nam ở Miền Nam mà thôi). Lẽ ra tôi đưa điều lệ để đồng chí nghiên cứu nhưng đ/c là người hoạt động công khai trong Ban chấp hành Tổng hội sinh viên Sài Gòn và ĐH Luật Khoa nên tôi bây giờ mới phổ biến một số điều trong điều lệ để đ/c biết”. Một buổi kết nạp chẳng có lời thề thốt, cờ quạt gì cả. Anh Nguyễn Ngọc Phương, người phụ trách tôi trong thời gian đầu, là người lớn lên trong một gia đình khá giả, có em gái lấy nghệ sĩ hài nổi tiếng Bảo Quốc. Thật ra qua một số người hoạt động ở Huế anh ấy đã biết tôi từng tham gia phong trào đấu tranh Sinh viên học sinh Huế lúc tôi còn học đệ nhị, đệ nhất Quốc học Huế và đã từng bị bắt giam ở lao Thừa Phủ Huế gần một năm với Lý Thiện Sanh (nay là Bác sĩ định cư ở Úc). Vì chính quyền Thừa Thiên-Huế lúc đó nghĩ tôi là thành viên của Đoàn TN nhân dân Cách mạng Miền Nam. Nhắc đến đây tôi có một kỉ niệm khó quên: ba tôi và mẹ Lý Thiện Sanh nóng lòng vì đã đến kì thi Tú tài II nhưng chúng tôi vẫn bị nhốt trong tù. Vì vậy ông bà làm đơn hú họa xin cho hai chúng tôi được ra thi. Thế mà chính quyền Thừa Thiên-Huế lúc đó lại giải quyết cho ra thi. Tôi theo ban C Triết học nên chỉ còn vài ngày nữa là thi, ba tôi gửi một số sách vào cho tôi. May mắn lúc đó tôi đã đọc nhiều sách triết học của các Giáo sư Nguyễn Văn Trung, Trần Văn Toàn và các tạp chí Sáng tạoHiện đại của nhà văn Thanh Tâm Tuyền, Mai Thảo, nhà thơ Nguyên Sa, Tô Thùy Yên, v.v., kể cả quyển sách viết về Nietzschecủa Nguyễn Đình Thi thời còn trai trẻ trước 1945, nên gặp đề thi triết khá hay tôi tán đủ điều, đậu hạng thứ dễ dàng. Còn Lý Thiện Sanh học ban B vốn rất giỏi nên đậu hạng bình thứ. Những ngày ba tôi đến đón tôi ra thi ông đã đi qua cánh đồng An Cựu trong giá lạnh. Tôi không thể nào quên hình ảnh đó của ba tôi. Bây giờ Người đã mất nhưng tôi không bao giờ quên ông, biết ơn nuôi dạy tôi thành người trưởng thành pha một chút ân hận vì tôi mà ông phải khổ sở. Tôi không biết với chế độ gọi là “ưu việt” hiện nay có người tù nào đã được cho ra khỏi nhà tù để đi thi như chúng tôi hay không? Trong thời gian đó, lúc nhà tù cho tù nhân làm văn nghệ tôi thường hát bài “Tình quê hương” thơ Phan Lạc Tuyên, nhạc Đan Thọ, lúc đó là Đại úy Quân đội Sài Gòn. Gia đình của người phụ trách lao Thừa Phủ đứng trên bức tường có đường đi bao quanh nhà tù để xem. Đúng là cái máu lãng mạng của đám Sinh viên học sinh chúng tôi lúc đó ngay trong tù cũng nổi dậy đùng đùng và có cô con gái rất thích bài đó. Lý Thiện Sanh đùa “Nó khoái mày rồi đó”. Về anh Nguyễn Ngọc Phương người phụ trách tôi sau này bị địch bắt, đã hi sinh trong tù năm 1973. Năm ngoái, nhân ngày giỗ anh, tôi có kể lại việc mỗi lần sinh hoạt với tôi xong anh đề nghị tôi hát bài “Trăng mờ bên suối” của Lê Mộng Nguyên. Hát xong tôi hỏi anh: “Anh là bí thư Đảng ủy sinh viên mà sao thích bài hát ướt át quá vậy?”. Anh cười buồn và nói: “Chúng ta chiến đấu xét đến cùng là vì con người. Nhưng bài hát đó viết rất hay về con người thì sao mình không thích được!”. Nghe anh tôi càng cảm phục người đ/c phụ trách tôi và hôm giỗ anh tôi hát lại bài “Trăng mờ bên suối” để cúng anh. Sau đó, chị Cao Thị Quế Hương có vẻ trách tôi vì cho rằng anh Phương không  thể ủy mị như vậy. Tôi cười buồn và im lặng.
Tôi đã đi theo kháng chiến và vào Đảng như thế đó…
2.    Vấn đề đa nguyên, đa đảng
Có thời gian từ 1975 đến 1983 tôi là giảng viên Triết học và Chủ nghĩa xã hội khoa học ở Trường Đảng Nguyễn Văn Cừ thuộc Khu ủy Sài Gòn-Gia Định. Về phương pháp luận của Chủ nghĩa Mác-Lê nin mà tôi hiểu được có một điều cơ bản là cơ sở hạ tầng (bao gồm cơ sở xã hội, cơ sở kinh tế, v.v.) như thế nào thì phản ảnh lên thượng tầng kiến trúc như thế đó. Sau một thời gian dài Đảng và nhà nước Việt Nam nhận chìm các tầng lớp nhân dân Việt Nam từ Bắc chí Nam dưới chế độ quản lý kinh tế bao cấp, đi ngược lại tất cả qui luật tự nhiên, cop-pi mô hình kinh tế của Liên bang Xô viết và Trung Quốc cộng sản 100%. Dân chúng đói kém rên xiết. Các đợt cải tạo tư sản X1, X2 đã làm tan nát biết bao gia đình, làm dòng người vượt biên ngày càng nhiều và biết bao gia đình phải chết tức tưởi trên biển. Trong đó có gia đình nhà báo Trần Triệu Luật, người đã cùng tôi vào chiến khu và đã hi sinh vào ngày 11.10.1968 tại căn cứ Ban tuyên huấn T.Ư cục Miền Nam cùng với nhà thơ Thảo Nguyên Trần Quang Long sau trận bom ác liệt của F105 của Mỹ. Hoặc bị bọn cướp biển hãm hiếp làm nhục trước mặt chồng con. Có thể nói tất cả điều đó là tội ác của Đảng và Nhà nước Việt Nam, không thể nói khác được. Trước sự rên xiết của người dân, những nhà lãnh đạo còn có tấm lòng và suy nghĩ đã chủ trương phải đổi mới kinh tế bằng cách phải chấp nhận kinh tế có nhiều thành phần trong đó có kinh tế cá thể. Thế thì một khi cơ sở hạ tầng có nhiều thành phần kinh tế khác nhau trong xã hội sẽ có nhiều tầng lớp với lợi ích khác nhau thì tất yếu họ phải có tổ chức để đấu tranh bảo vệ quyền lợi của họ. Đó là qui luật tất yếu, vì vậy không thể không đa nguyên đa đảng được, và như vậy điều 4 Hiến Pháp hiện nay là vô nghĩa. Trước sau gì các vị lãnh đạo của ĐCS phải chấp nhận thách thức này: các Đảng, tổ chức đối lập sẽ đấu tranh bình đẳng với ĐCS trong các cuộc bầu cử hợp pháp có quan sát viên Quốc tế giám sát như hiện nay Campuchia đã làm. Tôi thách bất cứ ai trong Bộ chính trị, Ban bí thư, trong Ban Tuyên huấn của Đảng mà đứng đầu là ông Đinh Thế Huynh, vừa là Trưởng ban, vừa là Chủ tịch Hội đồng lý luận Trung ương, trả lời luôn một cách công khai, minh bạch với chúng tôi trên các diễn đàn mà không chơi trò “bỏ bóng đá người” như đã từng thường sử dụng hiện nay. Thực tế hiện nay, trong Nam ngoài Bắc đã tập hợp được những khuynh hướng có chủ trương đấu tranh cho một thể chế dân chủ cộng hòa mà tiêu biểu là đề nghị 7 điểm và dự thảo Hiến pháp năm 2013 của nhân sĩ trí thức tiêu biểu ở trong Nam ngoài Bắc như nhà văn Nguyên Ngọc, các Giáo sư Hoàng Tụy, Chu Hảo, Tương Lai, Phạm Duy Hiển, những trợ lý Tổng bí thư, Thủ tướng hoặc Đại sứ nhiều thời kỳ như ông Trần Đức Nguyên, Việt Phương, Nguyễn Trung, v.v. Các nhà kinh tế có uy tín lớn như Lê Đăng Doanh, Phạm Chi Lan, các nhà báo, nhân sĩ trí thức kỳ cựu như Hồ Ngọc Nhuận, Nguyễn Đình Đầu, Lữ Phương, Kha Lương Ngãi, Nguyễn Quốc Thái, và các “lãnh tụ” sinh viên trước đây đã có một thời kỳ lẫy lừng trong phong trào đấu tranh tại Sài Gòn và các đô thị Miền Nam trước 1975 như Huỳnh Tấn Mẫm, Lê Công Giàu, Trần Văn Long (Năm Hiền), Huỳnh Kim Báu, Hạ Đình Nguyên, Cao Lập và biết bao con người tâm huyết mặc dầu đời sống kinh tế đã khá giả, có những người là giàu có, nhưng không thể yên tâm thụ hưởng tất cả những tiện nghi của đời sống đã vùng lên sau một giấc ngủ khá dài để chấp nhận mọi rủi ro, nguy hiểm cho bản thân cá nhân mình cũng như gia đình, quyết dấn thân vào cuộc chiến đấu mới để tiếp tục thực hiện lý tưởng thời trai trẻ mà hiện nay đã bị phản bội, chà đạp lên những lời hứa năm nào trong kháng chiến. Ngoài ra còn cả một lớp trẻ hăng hái, nhiệt tình bao gồm những bloger, những sinh viên đang có những hoạt động ở các trường Đại học hoặc nhiều tổ chức khác. Tình hình trên cộng với thực tế hiện nay tôi biết nhiều đảng viên đang muốn ra khỏi Đảng, hoặc không còn sinh hoạt Đảng (giấy sinh hoạt bỏ vào ngăn kéo). Vậy tại sao chúng ta hàng trăm đảng viên không tuyên bố tập thể ra khỏi Đảng và thành lập một Đảng mới, chẳng hạn như Đảng Dân chủ xã hội, những Đảng đã có trên thực tế trước đây cho đến khi bị ĐCS bức tử phải tự giải tán? Tại sao tình hình đã chín mùi mà chúng ta không dám làm điều này vì chủ trương không đa nguyên đa đảng chỉ là chủ trương của Đảng chứ chưa có một văn bản pháp lý nào cấm điều này? Mà nguyên tắc pháp lý là điều gì luật pháp không cấm chúng ta đều có quyền làm. Đó là quyền công dân chính đáng của chúng ta. Không thể rụt rè, cân nhắc gì nữa. Đây là một yếu tố sẽ làm cho xã hội công dân, xã hội dân sự mạnh lên, không có thế lực nào ngăn cản được. Đây là cách chúng ta phá vỡ một mảng yếu nhất của một nhà nước độc tài toàn trị hiện nay. Chẳng lẽ nhà nước này bắt bỏ tù tất cả chúng ta sao? Chúng ta phải đấu tranh với phương châm công khai, minh bạch, ôn hòa, bất bạo động, phản đối tất cả mọi hành động manh động, bạo lực khiêu khích gây chiến tranh. Như nhà thơ Nguyễn Duy đã viết, đại khái: trong bất cứ cuộc chiến tranh nào người thất bại đều là nhân dân. Giờ hành động đã đến. Không chần chừ, do dự được nữa.
3.    Vấn đề Độc lập dân chủ, tự do và hạnh phúc
- Việt Nam đã thống nhất mặc dầu còn nhiều điều chưa hòa hợp, đoàn kết thực sự. Nhưng còn độc lập thì sao? Sau khi hi sinh biết bao xương máu, nay Đảng và Nhà nước Việt Nam muốn làm việc gì đều phải len lén nhìn ông bạn láng giềng Trung Quốc, những kẻ luôn chực nuốt chửng nước ta và vào năm 1979 họ đã xua quân tàn sát người dân Lạng Sơn và các tỉnh phía Bắc mà tên Đặng Tiểu Bình xấc xược gọi là dạy cho Việt Nam một bài học. Thật ra tổ tiên chúng ta, những tiền nhân thời xa xưa đã cho họ nhiều bài học Chi Lăng, Bạch Đằng Giang, Gò Đống Đa, v.v. Không biết tập đoàn Tập Cận Bình có còn nhớ những bài học đó không? Riêng các vị lãnh đạo ĐCS  và Nhà nước Việt Nam thì dường như chưa thấy hết sức mạnh của dân tộc Việt Nam nên quá “hiền lành” đối với một nước lớn nhưng rất “tiểu nhân” (chữ nghĩa của các truyện Tàu), miệng thì xoen xoét nói về “bốn tốt mười sáu chữ vàng” trong lúc hành động thực tế là uy hiếp, săn đuổi, bắt bớ một cách vô nhân đạo các ngư dân Việt Nam đang đánh bắt trong ngư trường truyền thống của mình hoặc hèn hạ cắt đứt cáp các tàu thăm dò dầu khí của chúng ta. Thế mà phản ứng của lãnh đạo Việt Nam thì quá nhu nhược: chỉ là lời phản đối lặp đi lặp lại nghe quá nhàm tai và khó chịu của người phát ngôn viên bộ Ngoại giao. Đến nỗi có những vụ việc lớn mà lại không dám thực hiện hành động đáp trả theo quy tắc bình thường trong quan hệ quốc tế là triệu tập Đại sứ Trung Quốc ở Hà Nội để trao công hàm phản đối chứ không chỉ là đưa công hàm đến tòa Đại sứ. Vậy thì độc lập cái gì? Hẳn nhiên là chúng ta không dựa vào nước này chống các nước khác nhưng thực tế quốc tế hiện nay rất thuận lợi để chúng ta liên kết với các nước để đấu tranh với Trung Quốc về Biển Đông. Tôi rất mừng nghe Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng tuyên bố ở hội nghị Shangri-La chống lại nền chính trị cường quyền và những đối xử vô nhân đạo đối với ngư dân Việt Nam. Trả lời phỏng vấn một Thiếu tướng Trung Quốc, Thủ tướng đã khéo léo nói nước đó là nước nào ai cũng biết. Rõ ràng đây là cú đấm đích đáng bọn bành trướng Bắc Kinh trong một diễn đàn quốc tế. Tôi càng thấy vui hơn khi được biết đây là ý kiến của cá nhân Thủ tướng dám chịu trách nhiệm để tuyên bố như vậy chứ không có sự chỉ đạo nào của Bộ chính trị cả. Vì thế mà Hạ Đình Nguyên trong một bài viết về vấn đề này đã hoan hô Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đến 5 lần.
4. Vấn đề Dân chủ, tự do và hạnh phúc
Thực chất đây là vấn đề dân sinh, dân chủ mà trước đây trong thời kì kháng chiến hoặc trước 1975 ĐCS VN đã phát động để đấu tranh giành quyền sống. Đây là vấn đề về con người.
+ Về dân chủ thì đã quá rõ. Muốn có dân chủ thực sự thì phải thay đổi thể chế từ một nhà nước độc tài toàn trị chuyển thành một nhà nước cộng hòa với tam quyền phân lập: lập pháp, hiến pháp, tư pháp độc lập. Tư pháp độc lập thì mới có thể chống tham nhũng. Cần có Quốc hội lập hiến để soạn thảo và thông qua Hiến pháp mới. Sau đó bầu Quốc hội lập pháp để ĐCS sẽ qua bầu cử bình đẳng mà trở thành người lãnh đạo. Tôi nghĩ trong một thời gian dài ĐCS vẫn sẽ là một lực lượng chính trị mà không có bất cứ lực lượng nào có thể tranh chấp được. Các nhà lãnh đạo ĐCS cần tự tin điều đó. Dần dần các Đảng đối lập sẽ trở thành một lực lượng làm nhiệm vụ như một kháng thể trong một cơ thể xã hội lành mạnh. Nếu xã hội không có lực lượng đối lập sẽ trở thành một con bệnh SIDA khó trị, chờ chết mà thôi.
+ Con người khác con vật ở chỗ là có tự do. Tự do là thuộc tính của con người. Không có tự do thì con người chỉ là một đàn cừu (theo ngôn ngữ của Giáo sư toán học Ngô Bảo Châu). Không có tự do thì không thể có khoa học, văn học, nghệ thuật, báo chí… thật sự. Do đó Hiến Pháp 1946 đã qui định những quyền tự do của con người. Đó là vấn đề quyền con người. Nhưng giờ đây chế độ toàn trị đã phản bội tước đoạt tất cả các quyền cơ bản đó, vất bỏ tuyên ngôn nhân quyền và nhai đi nhai lại luận điệu mỗi nước có hoàn cảnh riêng, có vấn đề nhân quyền riêng. Họ không biết rằng đó là quyền cơ bản và phổ quát mà loài người đã đấu tranh qua nhiều thế hệ. Đại tá nhà văn Nguyễn Khải đã nói: “khi đọc cuốn Bàn về tự do của Stuart Mil thì vỡ ra nhiều vấn đề”. Vì vậy anh Nguyễn Khải đã nhìn lại những  gì mà anh đã trải nghiệm một cách sâu sắc với một giọng văn nhẹ nhàng không hàm hồ nên rất thuyết phục. Đây là quyển sách đã đi sâu vào tim óc của chế độ mà không thấy các vị “phê bình chỉ điểm” (cách gọi mới đây của nhà văn Phạm Xuân Nguyên, Chủ tịch Hội nhà văn Hà Nội đối với tên Nguyễn Văn Lưu cùng với một số người trong việc “bề hội đồng” bài viết của Thạc sĩ Nhã Thuyên về nhóm “Mở miệng”) nào dám phê phán, chửi rủa. Các vị lãnh đạo ĐCS tại sao không suy nghĩ trong chế độ thuộc Pháp lại có một thời báo chí, văn học nghệ thuật phát triển mà cho đến nay chưa có thời kì nào có thể so sánh được dù là chế độ gọi là “tự do gấp vạn lần” như bà Phó chủ tịch nước Nguyễn Thị Doan đã nói một cách hàm hồ, thiếu suy nghĩ, chỉ làm trò cười cho thiên hạ. Báo chí thì nở rộ: Gia Định báoPhụ nữ tân vănNam PhongPhong hóaNgày nay… với những học giả Phạm Quỳnh, Nguyễn Văn Vĩnh, Phan Khôi,… Văn học nghệ thuật thì có cả một trào lưu thơ mới với Xuân Diệu, Huy Cận, Thế Lữ, Chế Lan Viên, Lưu Trọng Lư và nhiều nhà thơ nổi tiếng khác với nhiều bài thơ bất hủ mà đến nay ai cũng thuộc nằm lòng. Về tiểu thuyết thì có nhóm Tự lực văn đoàn với Nhất Linh, Khái Hưng, Thạch Lam, Hoàng Đạo… Ngoài ra còn có hàng loạt nhà văn tài hoa khác như Nguyễn Tuân, Tô Hoài, Lan Khai, Thanh Tịnh, Nguyên Hồng, v.v. Với Thanh Tịnh tôi vẫn nhớ bài “Tôi đi học” trong tập Quê mẹ của ông. “Hằng năm cứ vào cuối thu, lá ngoài đường rụng nhiều và trên không có những đám mây bàng bạc, lòng tôi lại nao nức những kỷ niệm mênh mang của buổi tựu trường. Tôi không thể nào quên được những cảm giác trong sáng ấy nảy nở trong lòng tôi như mấy cành hoa tươi mỉm cười giữa bầu trời quang đãng. Những ý tưởng ấy tôi chưa lần nào ghi lên giấy, vì hồi ấy tôi không biết ghi và ngày nay tôi không nhớ hết. Nhưng mỗi lần thấy mấy em nhỏ rụt rè núp dưới nón mẹ lần đầu tiên đến trường, lòng tôi lại tưng bừng rộn rã. Buổi sáng mai hôm ấy, một buổi mai đầy sương thu và gió lạnh. Mẹ tôi âu yếm nắm tay tôi dẫn đi trên con đường làng dài và hẹp. Con đường này tôi đã quen đi lại lắm lần, nhưng lần này tự nhiên tôi thấy lạ. Cảnh vật chung quanh tôi đều thay đổi, vì chính lòng tôi đang có sự thay đổi lớn: Hôm nay tôi đi học”. Nhạc thì có một thời có nền tân nhạc rực rỡ với các tên tuổi như Văn Cao, Đặng Thế Phong, Phạm Duy, Đoàn Chuẩn-Từ Linh, Doãn Mẫn, Lê Thương, Nguyễn Văn Thương… Thế mà Thanh Tịnh và những nhà văn, nhà thơ, nhạc sĩ nói trên dưới chế độ XHCN ở Miền Bắc chẳng có tác phẩm nào ra hồn.
Cũng may ra sau 1975, không khí vui vẻ, sum họp của những ngày đầu đã tạo nên trào lưu hứng khởi để nhạc sĩ VĂN CAO làm bài “Mùa xuân đầu tiên” với điệu valse dìu dặt. Nhưng tội nghiệp cho Văn Cao đã ngây thơ tin rằng “Từ đây người biết yêu người, từ đây người biết thương người, từ đây người biết quê người…” thế mà bài ca này cũng bị cấm hát hết mấy năm. Những năm sau khi vào chơi với Trịnh Công Sơn và các nhạc sĩ Miền Nam ông đã nói lên nỗi thất vọng của ông. Cảnh chia lìa, vượt biên, đày đọa, tù tội trong đó có người bạn văn chương của các ông đã làm ông buồn bực và tiếp tục uống rượu. Chỉ có một điều an ủi ông là vào Nam, vào Sài Gòn ông nghe mọi người từ trẻ đến già đều hát “Mùa xuân đầu tiên”, “Thiên thai”, “Suối mơ”, “Trương Chi”, “Buồn tàn thu”, v.v. của ông. Vấn đề là ĐCS VN cần trả lại những gì của lịch sử, của tiền nhân để lại. Việc đổi tên đường từ Trần Quý Cáp thành Võ Văn Tần, từ Phan Đình Phùng thành Nguyễn Đình Chiểu, v.v. là việc làm thiếu suy nghĩ, nếu không nói là ngu xuẩn, chà đạp lên lịch sử, xúc phạm những chiến sĩ tuy không phải là Cộng sản nhưng đã đấu tranh bảo vệ đất nước trong các phong trào Cần Vương, Duy Tân. Ngay trong lĩnh vực báo chí tại sao lại lấy ngày ra đời báo Thanh niên, báo của tổ chức CS làm ngày báo chí VN. Quan điểm tôi là phải lấy ngày 15-4 là ngày số báo đầu tiên của Gia Định báo năm 1865 làm ngày báo chí VN. Năm sau, một số nhà báo cùng chúng tôi sẽ tổ chức ngày báo chí VN vào ngày 15-4. Còn ĐCS và các tổ chức của mình cứ lấy ngày 21-6 làm ngày báo chí Cách mạng cũng không sao. Việc ai nấy làm. Thế thôi.
Tại Miền Bắc gọi là XHCN khi hòa bình mới lập lại, các văn nghệ sĩ mà đặc biệt đi tiên phong là các nhà thơ, nhà văn quân đội, mà tiêu biểu là Trần Dần, Phùng Quán, Hoàng Cầm,… đã  gây chấn động trong vụ Nhân văn giai phẩm. Có lẽ là những người trực tiếp chiến đấu chứng kiến cảnh chết chóc của nhân dân trong chiến tranh nên họ quyết tâm tiếp tục chiến đấu để xây dựng một chế độ xã hội tự do dân chủ và tiến bộ xã hội. Họ đã quy tụ được nhiều nhân sĩ, trí thức, văn nghệ sĩ giàn trận đấu tranh quyết liệt với Đảng  để đòi hỏi tự do sáng tác, đòi hỏi chính trị không được can thiệp vào sáng tác của văn nghệ sĩ. Nhà nước độc tài Đảng trị trong những năm đó thấy đây là nguy cơ đe dọa của chế độ nên đã ra tay đàn áp, bắt bớ, tù đày một cách không nương tay. Người bị tù với vụ án ngụy tạo như công thần Nguyễn Hữu Đang, người đã làm lễ đài Độc lập năm 1946. Hữu Loan với lòng tự trọng của một người văn nghệ sĩ cương quyết về quê thồ vác đá nuôi vợ con. Ba mẹ vợ anh trong cải cách ruộng đất đã bị chôn sống để trâu bò bừa lên đầu, lên cổ cho đến chết. Một Nguyên Hồng khảng khái bỏ về Yên Thế nuôi heo để kiếm sống. Trần Hữu Đang sau khi ra tù sống những ngày tủi nhục phải góp nhặt bao thuốc lá làm hàng “đối lưu” với ếch nhái, rắn rết của bọn trẻ chung quanh kiếm cho. Năm 1989, tôi gặp Thạc sĩ Luật Nguyễn Mạnh Tường ở Pháp, người đã theo Hồ Chí Minh về nước năm 1946. Ông kể lại hoàn cảnh của ông lúc đó, bị cô lập đến nỗi học trò cũng không dám nhìn mặt, phải bán tủ sách quí để sống qua ngày. Còn nhà triết học Trần Đức Thảo, khi tôi còn làm Phó chủ tịch thường trực MTTQ TP HCM đã mời ông đến nói chuyện. Bước xuống xe ông ngó lên liền xem có công an theo dõi ông không. Buổi nói chuyện làm mọi người thất vọng vô cùng về ông.
Tôi còn có những kỉ niệm đau đến xé lòng khi còn nằm trong hệ thống chính trị của nhà nước toàn trị. Lúc còn là phó CT/TT MTTQ TP HCM và là đại biểu HĐND TP khóa 4, khóa 5. Có mấy việc tôi còn nhớ mãi:
+ ĐCS VN ngày trở thành kiêu binh. Đâu đâu cũng vỗ ngực xưng tên là “ĐCS VN quang vinh muôn năm”. Ngay cả Hội trường của cơ quan dân cử như HĐND TP thế mà chẳng thấy đất nước, Tổ quốc đâu cả, chỉ thấy một khẩu hiệu to chần dần [to đùng] “ĐCS VN quang vinh muôn năm”. Một số đại biểu trong HĐND trong Đảng cũng như ngoài Đảng thấy chướng mắt nhưng không dám nói. Họ đến nói với tôi. Tôi thông cảm họ. Trong HĐND khóa 5, khi lên phát biểu ở Hội trường tôi trầm giọng nói: “Đây là cơ quan dân cử, đại diện cho nhân dân TP, nhưng tôi không thấy đất nước, Tổ quốc ở đâu mà chỉ có ĐCS muôn năm thôi là sao? Đảng chỉ là một bộ phận của nhân dân, không có Tổ quốc, nhân dân thì làm gì có Đảng. Đảng phải đặt Tổ quốc lên trên hết, vì vậy tôi đề nghị thay đổi khẩu hiệu này bằng câu CHXHCN Việt Nam. Cả hội trường im phăng phắc. Nhưng ngay kỳ họp sau thì khẩu hiệu Đảng đã thay đổi bằng tên nước.
+ Tôi là Trưởng ban VHXH HĐND TP khóa 5. Trong các kỳ họp HĐND TP, các ban có bài thẩm dịnh khá công phu. Phải đi thực tế, làm việc với các ngành và sau đó họp toàn ban để thông qua Trưởng ban là người quyết định cuối cùng. Tôi nhớ trong một kì họp, tôi thức suốt đêm sửa chữa, hoàn thiện văn bản để phát biểu trước HĐND. Khi lên phát biểu, nhìn xuống thì không thấy vị Phó CT nào dự, kể cả phó CT phụ trách VNXH. Thấy vậy tôi không đọc mà đề nghị ông Huỳnh Đảm, lúc đó là CT HĐND, cho các thư kí, trợ lý điện gấp cho các Phó CT, nhất là các Phó CT phụ trách VHXH về dự họp. Ban thẩm định chuẩn bị công phu để phân tích những vấn đề, nhất là những vấn đề còn tồn tại, hạn chế trong lĩnh vực văn hóa, giáo dục, y tế, thể dục thể thao, các vấn đề xã hội khác. Những vấn đề có liên quan thiết yếu đến đời sống nhân dân TP. Khi thầy các Phó CT lục tục về họp tôi mới phát biểu bản thẩm định của Ban. Đây là lần đầu tiên các phóng viên báo chí thấy việc này nên rất khoái. Từ đó, kì họp nào các PCT UBND cũng đều có mặt trừ một số PCT có lý do chính đáng. Cái bệnh chỉ coi trọng Đảng, Thành ủy, xem thường HĐND đã vào máu các vị quan chức của chúng ta.
+ Việc thứ ba là cuộc đấu tranh hay có thể nói là đấu khẩu của Chủ tịch UBND TP Võ Viết Thanh và tôi về việc có nên dẹp chợ hoa Nguyễn Huệ hay không? Cuộc đấu khẩu gay gắt đến nỗi CT Võ Viết Thanh nói đại ý nếu đ/c Đằng thấy Đảng chật hẹp quá thì xin ra khỏi Đảng. Tôi liền đốp chát lại: đó là chuyện mà tôi và anh sẽ nói trong Đảng, còn đây là HĐND. Giữa lúc có nhiều đại biểu đồng ý với tôi, trong đó có Trần Văn Tạo, Ủy viên TVTU, Phó giám đốc Công an TP, Phạm Phương Thảo, Ủy viên TVTU, Phó CT phụ trách VHXH UBND TP thì chủ tọa kỳ họp lại được tin ban Thường vụ Thành ủy họp và đã đồng ý dẹp chợ hoa TP. Tôi cương quyết đề nghị có Nghị quyết về vấn đề này nhưng chủ tọa làm ngơ và thông qua NQ ở HĐND TP. Tuy đấu tranh gay gắt như vậy nhưng đối với anh Võ Viết Thanh tôi vẫn tôn trọng tính trung thực, quyết đoán của anh. Lúc đó tôi với tư cách đại biểu HĐND TP có phối hợp với các vị hưu trí Q.6, với Ban quản lý thị trường TP để tố cáo những tiêu cực, sai trái của Giám đốc Đông lạnh Hùng Vương. Phối hợp với cuộc đấu tranh này có anh Nguyễn Văn Thắng, Ủy viên TV Quận ủy Q.6, Trưởng ban Tuyên huấn Q.6. Thắng cũng là dân phong trào SV. Không hiểu sao sau đó có một văn bản có danh sách 12 người gọi là điệp báo của Cục tình báo TƯ trong đó Nguyễn Văn Thắng nằm ở số 7. Lúc ấy anh Nguyễn Minh Triết mới về làm Phó bí thư thường trực của TƯ. Tôi gặp anh Nguyễn Minh Triết và trình bày với anh về vấn đề thì anh đề nghị tôi không can thiệp nữa vì danh sách đã có dấu đỏ của đặc ủy tình báo TƯ của Mỹ. Trước đó có người biết chuyện ngụy tạo danh sách này và nói danh sách láo được đánh trên giấy Bãi Bằng là giấy chỉ do Cộng sản sau 1975 sản xuất. Anh Nguyễn Minh Triết ghi nhận nhưng Nguyễn Văn Thắng vẫn bị giam ở 4 Bạch Đằng. Lúc ấy Q.6 tính lấy lại nhà của Nguyễn Văn Thắng ở Bà Hom, Q.6. Tôi gặp Chủ tịch Võ Viết Thanh và đề nghị anh xem xét lại vấn đề này thì anh nói với tôi một cách cương quyết: “Chuyện chính trị của Thắng tôi không biết nhưng chuyện nhà của Thắng tôi bảo đảm không ai lấy được”. Anh giữ lời hứa khi Thắng được giải oan về lại Bà Hom, Q.6 như cũ. Tôi gặp anh Võ Viết Thanh cám ơn anh. Nhân đó tôi hỏi thăm tại sao anh không đi học Cử nhân, Tiến sĩ như những người khác. Anh cười nói rất Nam Bộ: “Tôi không chơi kiểu đó. Nếu tôi học tôi sẽ xin nghỉ làm để đi học thật sự, không như những vị học giả mà bằng thật như hiện nay”. Từ đó quan hệ giữa anh và tôi rất vui vẻ, không còn nhớ gì trận đấu khẩu nảy lửa ở HĐND về vụ chợ hoa Nguyễn Huệ. Sau này anh bị thất sủng vì vụ án Sáu Sứ mà trong quyển Bên thắng cuộc nhà báo Huy Đức có nêu.
Tôi nêu những trải nghiệm nói trên để chứng minh rằng trong chế độ này không có chỗ cho người trung thực mà chỉ dành cho những người nói láo, tránh né đấu tranh. Giờ đây chúng ta phải phá vỡ nỗi sợ hãi đó đi để thực hiện một chủ trương cực kỳ quan trọng của nhà cách mạng Phan Châu Trinh: Khai dân trí, chấn dân khí, hậu dân sinh.
Cuối cùng tôi xác định bài viết này chỉ có mục đích là thanh toán, tính sổ cuộc đời của mình, trang trải những món nợ còn lại để gửi các vị lãnh đạo Đảng CSVN, để mong các vị “mở mắt” ra mà có sự lựa chọn con đường sống cho dân tộc. Hiện nay xu hướng chạy  theo CN Mác-Lênin CNXH đã lạc điệu, không còn phù hợp nữa và đã sụp đổ tan tành ở ngay quê hương  Xô Viết. Hiện nay là cuộc đấu tranh trên thế giới về dân quyền, dân sinh, dân chủ, tự do, tiến bộ xã hội và bảo vệ môi trường. Nghĩa là đây là cuộc đấu tranh quyết liệt cho con người, vì con người chống lại các thế lực phản động đang âm mưu nô dịch nhân dân, phá hoại môi trường vì những lợi ích kinh tế ích kỷ của các tập đoàn, lũng đoạn nhà nước.
Tôi không tin lắm về sự tự giác của một số nhà lãnh đạo Đảng và Nhà nước sớm thấy tình hình và xu thế phát triển hiện nay để đặt lợi ích của Đất nước, Tổ quốc lên trên hết mà có một giải pháp hợp lý, không vì lợi ích và sự tồn tại của Đảng, của chế độ mà đi ngược lại xu thế phát triển của thời đại hiện nay. Tôi quan niệm rằng làm nhiệm vụ của chúng ta hiện nay là cương quyết đấu tranh cho một xã hội công bằng, dân chủ và tiến bộ, tôn trọng thực hiện những lý tưởng của biết bao thế hệ cha anh chúng ta về một nước VN hòa bình, độc lập, tiến bộ xã hội, văn minh và giàu mạnh. Một khi xã hội dân sự, xã hội công dân mạnh lên, sẽ đủ sức kìm hãm, ức chế các khuynh hướng độc tài của một nhà nước toàn trị. Trước mắt là phải “chấn dân khí” để không còn sợ hãi các thế lực tàn bạo, không sợ bắt bớ, tù đày. Sau đó là “khai dân trí” và “hậu dân sinh”.
Bài viết này cũng là để trải lòng với bạn bè, đồng đội và những nhân sĩ trí thức, các văn nghệ sĩ, các bạn thanh niên, sinh viên, học sinh mà tôi đã quen hoặc mới quen, để khẳng định một điều: với lòng tự trọng của một công dân một nước có lịch sử hào hùng chúng ta phải hành động. Không nên ngồi tranh luận với nhau về sự đúng, sai khi chọn lựa đứng bên này hay bên kia. Vì thật ra cả một bộ phận loài người trong đó có người VN luôn khát khao một xã hội tốt đẹp hơn, chống lại cái ác, cái xấu, nên đã có thời gian dài nuôi ảo tưởng về ĐCS VN và CNXH. Vấn đề là trước đây chúng ta chưa có đủ điều kiện, dữ liệu để nhận thức một số vấn đề sống còn của đất nước, nhưng hiện nay tình hình trong nước và trên thế giới đã thay đổi, vì vậy chúng ta phải nhận thức lại một số vấn đề trước đây. Nhận thức lại và dấn thân hành động cho cuộc chiến đấu mới. Đừng loay hoay những chuyện đã qua mà làm suy yếu sức mạnh đoàn kết dân tộc. Hãy để con cháu chúng ta làm nhiệm vụ đánh giá lịch sử. Còn chúng ta trước mắt là hành động, hành động và hành động. Điều này tôi nói một lần rồi thôi…
Viết trong những ngày nằm bịnh.
L.H.Đ.
- Nguyên phó TTK Ủy ban TƯ LM các lực lượng Dân tộc, dân chủ và Hòa bình Việt Nam
- Nguyên phó CT Ủy ban MTTQ VN TP.HCM (từ 1989-2009)
- Đại biểu HĐND TP khóa 4, khóa 5
Tác giả gửi trực tiếp cho BVN

Chủ Nhật, 18 tháng 8, 2013

2013 Triết học Mác qua thời gian..

Triết học Mác qua thời gian..
Cần một nền tảng triết lý tốt cho Trung Cộng Và Việt Nam
Sau gần 100 năm áp dụng lý thuyết Mác, hậu quả là cả trăm triệu người chết: chết không phải chỉ vì chống đối lý thuyết này, chống đối đảng cộng sản, mà chết nhiều nhất lại là sự thanh trừng trong nội bộ đảng, rồi mới tới số người chết ở ngoài đảng, ngoài quốc gia cộng sản.
Cali Today News - Trung cộng và Việt Nam, trên bình diện quốc nội, thì không thể nào có một sự phát triển đúng mức, có thể huy động tất cả những tiềm năng nhân sự quốc gia và một sự hài hòa xã hội; trên bình diện quốc tế, thì không thể nào có được một sự hòa bình, không những với những nước láng giềng, mà còn với cả thế giới; nếu hai nước còn giữ nền tảng triết lý sai trái Mác Lê. Vì vậy 2 nước này cần phải thay đổi triết lý này bằng một nền tảng triết lý đúng, dựa trên sự tự nhiên, bình thường của con người, trên những giá trị nhân bản, toàn cầu.

Lý thuyết triết học Mác sai trái và lỗi thời

Sau gần 100 năm áp dụng lý thuyết Mác, hậu quả là cả trăm triệu người chết: chết không phải chỉ vì chống đối lý thuyết này, chống đối đảng cộng sản, mà chết nhiều nhất lại là sự thanh trừng trong nội bộ đảng, rồi mới tới số người chết ở ngoài đảng, ngoài quốc gia cộng sản.
 Chỉ riêng điều này đã minh chứng quá rõ, quá đủ sự sai trái của triết lý Mác.
 Triết lý, định nghĩa một cách đơn giản và bình dân, là cách tự nhìn mình, nhìn người, nhìn xã hội, nhìn vạn vật, để sau đó tìm ra một cách sống, một quan niệm sống tốt đẹp nhất, hài hòa nhất, với chính minh, với người chung quanh. Điều này đúng với cá nhân và đúng với cả một tập đoàn, quốc gia xã hội. 
Từ đó, chúng ta đi đến một nhận xét là triết lý Mác sai trái, không tốt, cho cá nhân và cho quốc gia xã hội. Nó có tính cách bệnh hoạn, nhìn sai sự vật, không giúp cho con người phát triển, không những không đúng mức, mà còn không hài hòa, tự mâu thuẫn với chính mình và mâu thuẫn với người chung quanh.
 Thật vậy, triết lý của Marx không những vô cùng không tưởng, mà còn sai trái, phản con người, phản thiên nhiên, phản sự thật, lấy cái bất bình thường làm cái bình thường, làm đảo lộn tất cả những gì thuộc về con người, làm cho những người theo lý thuyết này không còn là con người, mà là người đến từ hành tinh khác, chỉ mang trong đầu óc ý nghĩ “ Phải đập phá tất cả những cái gì thuộc về hành tinh con người “, như nhà văn hào đoạt giải Nobel Nga Soljennytsine đã nhận xét.
Triết lý, quan niệm về lịch sử, về xã hội của Marx, có thể nói, đã được tóm gọn khá đầy đủ trong quyển sách Tuyên Ngôn Thư Đảng Cộng sản. Tuy nhiên Marx viết quyển sách này lúc còn rất trẻ và trong một thời gian rất ngắn, chỉ có mấy tuần.

Thật vậy, vào năm 1847, một số tổ chức, hội đoàn đấu tranh cho xã hội, thợ thuyền đã nhóm họp Đại Hội ở Luân Đôn, mà người ta cho đây là tiền thân của Quốc tế Cộng sản sau này.
Lúc này, Marx đã phải sống cuộc đời tỵ nạn ở Bỉ ( Bruxelles), vì hoàn cảnh tiền bạc, gia đình, không thể tham dự, người đại diện cho Marx là Engels. Trong Đại hội, Engels được chỉ định làm thư ký, ghi chép tất cả những phát biểu của những đại biểu, sau đó bản ghi chép được đưa cho Marx, để viết bản tuyên ngôn. Marx cứ chần chờ không viết, mặc dầu có nhiều lời thúc dục của ban thư ký Đại hội. Cuối cùng ban này đã cảnh cáo Marx, nếu không viết thì hãy trao bản ghi chép lại, để người khác viết. Lúc Đó Marx mới bắt đầu viết vào cuối năm 1847, trong ba tuần, sau đó được xuất bản ở Anh, vào năm 1848.
Điều này chứng tỏ Marx rất thông minh. Đó là điểm đáng khen. Nhưng điểm đáng trách đó là viết quá vội vã, ở vào một tuổi quá trẻ, 29 tuổi, vì Marx sinh năm 1818, chưa đủ kinh nghiệm, suy nghĩ chín chắn, viết có tính cách lãng mạng, không tưởng, hứng khởi, nhiệt tình, hơn là suy nghĩ, kiểm chứng, có tính cách khoa học, mặc dầu Marx tự nghĩ và cho rằng những điều mình viết ra là khoa học.
 Không cần tìm đâu xa, chỉ cần xem câu mở đầu của bản Tuyên Ngôn: “ Lịch sử của tất cả mọi xã hội từ xưa đến nay là lịch sử của đấu tranh giai cấp. “ ( L’Histoire de toute socìété jusqu’à nos jours est l’histoire de la lutte des classes) ( K. Mars – Le manifeste du Parti communiste – trang 19 – Nhà xuất bản Union générales d’ Editions – Paris -1962).
 Ở vào tuổi chưa đầy 30, dù có thông minh đến mấy chăng nữa, chắc chắn Marx cũng không thể nào đọc hết lịch sử của tất cả những xã hội nhân loại. Đây là đơn giản hóa, tổng quát hóa lịch sử. Thêm vào đó, Marx đưa ra định luật « Đấu tranh giai cấp, bạo động lịch sử «, chia xã hội ra làm 2 giai cấp, giai cấp sở hữu phương tiện sản xuất và giai cấp không có phương tiện sản xuất, biến xã hội thành một cuộc chiến không ngừng. 
Quan niệm bạo động lịch sữ là quan niệm lấy cái gì bất bình thường làm cái bình thường. Con người nói riêng và ngay một quốc gia, xã hội nói chung, bình thường là họ sống hòa bình. Chỉ khi nào bất đắc dĩ, bất bình thường, họ bị bắt buộc chấp nhận bạo động và muốn chiến tranh.
 Tiếp đến là triết lý duy vật biện chứng của Marx. Thực ra thì Marx lấy tòan phần tư tưởng biện chứng lịch sử ( Dialectique historique) của Hégel, chỉ khác ở chỗ là Hégel áp dụng cho tư tưởng, còn Marx áp dụng cho kinh tế, xã hội.

Chữ biện chứng ( Dialectique) lấy nguồn từ chữ Hy lạp ( Dialegein) có nghĩa lúc đầu là nói chuyện, lý luận, nghệ thuận nói chuyện, nghệ thuật lý luận, gồm có Đề, Phản Đề và Tổng Đề ( Thèse, Anti these et Synthèse), được Socrate dùng để nói chuyện với dân, nêu ra những mâu thuẫn của người đối thoại, nhất là giới bình dân, để gợi ý cho họ, để làm cuộc đối thoại trở nên phong phú, tiếp đó là được những người của trường phái hùng biện và ngụy biện dùng để nói lên sự mâu thuẫn của đối phương, để tìm cách chiến thắng họ.
 Sau này được Hégel  áp dụng cho tiến trình tư tưởng, cho rằng tư tưởng đi từ Đề  tới Phản Đề rồi tới Tổng Đề, và Tổng Đề lại trở thành Đề, có một Phản Đề khác chống lại, để đi đến Tổng Đề. Cứ như vậy, tư tưởng con người đi từ chỗ chủ quan đến chỗ khách quan.  Hégel còn mang áp dụng cho tiến trình lịch sử, nhưng vẫn trong lãnh vực tư tưởng. Còn Marx thì lấy tất cả tiến trình lịch sử này của Hégel, nhưng áp dụng cho vật chất, cho đấu tranh giai cấp, mà Marx gọi là Duy vật biện chứng.
Có thể nói triết học Tây phương đã từ bỏ vai trò khiêm nhượng ( l’humilité ) của mình, mà tiêu biểu là Socrate ( 470 – 399 trước Tây lịch ), với câu nói khiêm nhường: “ Cái điều tôi biết là tôi không biết gì cả.” ( Ce que je sais, c’est que je ne sais rien ) để bước sang thời kỳ kiêu hãnh ( l’arrogance), bắt đầu với Hégel ( 1770 – 1831 ) rồi K. Marx ( 1818 – 1883), học trò của Hégel, và Nietzsche ( 1844 – 1900).
 Những người này không còn tính khiêm nhường của triết học cổ điển Tây phương bắt đầu từ Socrate qua Saint Augustin tới Kant, mà trở nên kiêu hãnh, không những cho rằng mình biết mình, mà còn biết xã hội, lịch sử, tiến trình lịch sử, không những biết về quá khứ, hiện tại, mà cả tương lai, qua quá trình biện chứng lịch sử của Hégel và quá trình duy vật biện chứng lịch sử của Marx. Với Nietzsche, thì con người không còn là con người bình thường mà là con người Siêu Nhân, qua quan niệm Surhomme của ông.

Từ thời Hégel tới giờ, chúng ta thấy gì qua lịch sử, nhất là lịch sử Âu châu.
 Hégel đã mang quan niệm biện chứng lịch sử của mình áp dụng cho lịch sử Âu châu, nhất là lịch sử Pháp, qua cuộc Cách mạng Pháp 1789 và tiến trình của nó. Ông cho rằng xã hội Pháp lúc đó là Đề, cuộc Cách mạng 1789 là Phản Đề và Tổng Đề là Napoléon Bonaparte (1769 – 1821), với những lời khen ngợi hết cỡ vị hoàng đế Pháp này của Hégel. Chính Hégel đã tìm cách chứng kiến Napoléon, khi ông tiến quân vào Ìéna (Đức).
Kết quả Tổng hợp lịch sử của Hégel, chúng ta thấy gì: Đó là Napoléon đã gieo rắc chiến tranh khắp Âu châu, rồi sau đó bị các nước Âu châu hạ bệ.

Marx cũng mang quan niệm duy vật biện chứng sử quan của mình áp dụng cho lịch sử. Ông cũng dùng lịch sử Âu châu và đặc biệt là lịch sử Pháp như Hégel, nhưng ông cho rằng Tổng đề của lịch sử là Ba lê Công xã. Nhưng hậu quả của quan niệm triết lý lịch sử này là ra sao?
Đó là 100 triệu người là nạn nhân của chế độ cộng sản trong thế kỷ vừa qua, như những nhà sử gia, ông S. Courtois, N. Werth, J. L. Panné, A. Pczkowski, B. Bartosek và J.L. Margolin, trong Quển Sách đen về Chủ nghĩa Cộng sản ( Le livre noir du communisme – nhà xuất bản Robert Lăffont – 1997), đã chứng minh. Cũng chính vì vậy mà gần đây Quốc Hội Âu châu đã biểu quyết Quyết nghị 1841 kết án chế độ cộng sản là chế độ diệt chủng.
 Còn quan niệm Siêu nhân của Nietzsche thì như thế nào?
 Quan niệm này đã được Hitler lấy lại, đổi thành quan niệm Siêu Chủng tộc ( Super race) cho rằng chủng tộc Aryen là siêu chủng tộc mà đại diện là dân tộc Đức. Kết quả : Hitler đã là một trong những nguyên nhân chính của trận Thế Chiến thứ Hai, với 50 triệu nạn nhân, trong đó có 6 triệu dân Do Thái bị giết từ lệnh của Hitler và các bộ hạ của ông.
 Từ đó chúng ta mới nhìn rõ ra rằng quan niệm triết học, triết lý chính trị giữ một vai trò rất quan trọng, không những cho cá nhân, mà còn cho quốc gia xã hội, cho sự phát triển và hòa bình không những ở nội địa, mà cả quốc tế.
 Ngoài việc lấy cái gì bất bình thường làm cái bình thường cho rằng lịch sử nhân loại là bạo động, đi theo chân Hégel, thiếu tinh cách khiêm nhượng của những nhà triết học cổ điển trước kia, Marx còn bị lầm lẫn là quá tin vào khoa học, không biết rằng “ Khoa học mà không có lương tâm, chỉ là sự phá hoại của tâm hồn “ ( Science sans conscience n’est que ruine de l’ ame ) ( Rabelais – Pantagruel), hơn nữa cho rằng những điều mình viết là khoa học, đưa đến chỗ lừa dối những người đồ đệ và những người theo lý thuyết của mình, khiến họ trở thành nạn nhân và đau đớn cho Marx, vì sau cùng ông cũng là nạn nhân của chính ông.
Thật vậy, sau khi viết xong quyển Tuyên Ngôn Thư Đảng Cộng sản, nhiều lần Marx viết và tuyên bố là sẽ tìm cho thợ thuyền một phương tiện đấu tranh có khoa học. Marx muốn biến khoa học kinh tế, một khoa học nhân văn, thành một khoa học chính xác. Nhưng Marx bị lâm vào ngõ cụt, làm việc không tưởng. Đây là là một trong những nguyên nhân chính cắt nghĩa tại sao Marx bỏ cả cuộc đời viết quyển Tư Bản luận ( le Capital), gồm 3 quyển, mà Marx chỉ có thể hoàn thành quyển đầu nói về giá trị hàng hóa.
Nhiều người nịnh bợ Marx cho rằng ông không thể hoàn thành quyển Tư Bản luận là vì ông thận trọng, so đo từng chữ viết một. Không phải thế. Ông không thể hoàn thành vì ông tự đặt mình trong ngõ cụt, muốn biến khoa học kinh tế, một khoa học nhân văn, thiếu chính xác, thành khoa học chính xác, như toán học. Điều này còn được chứng minh them là cuối cuộc đời, Marx đã bỏ công học hỏi và nghiên cứu toán học. 
 Nói đến duy vật biện chứng của Marx, mà không nói đến qui luật tất yếu của lịch sử, thì cũng là một điều thiếu xót, vì sự kình chống giữa giai cấp chủ và giai cấp thợ càng ngày càng trở nên  gay gắt, chỉ có thể vượt qua bằng một cuộc cách mạng bạo động, vì giai cấp chủ càng ngày càng giàu có và càng ít, giai cấp thợ càng ngày càng nghèo và càng đông, hố ngăn cách càng ngày càng lớn, sẽ dẫn đến cách mạng bạo động tất yếu.
 Marx viết: “ Vũ khí mà giai cấp tư sản dùng để hạ bệ chế độ phong kiến, nay quay lại chống chính họ. Giai cấp tư sản không những tạo ra những vũ khí chống họ, mà họ còn tạo ra những người xử dụng vũ khí này: thợ thuyền hiện đại, giai cấp vô sản.” ( K. Marx – Sách đã dẫn – trang 27).
 Suốt cuộc đời Marx ngồi chờ đợi cách mạng tất yếu, lúc đầu hy vọng nó sẽ xẩy ra ở Anh, sau đó quay sang hy vọng ở Đức, rồi Marx chết vào năm 1883, lúc 65 tuổi. 34 năm sau, Lénine làm “ Cách mạng cộng sản “, áp dụng lý thuyết của Marx. Thực ra đây là một cuộc đảo chánh thì đúng hơn, mà người thực hiện cuộc đảo chánh này không phải là Lénine, mà là Trotski.
 Vào lúc đó, đang là thời kỳ cuối của Đệ Nhất Thế Chiến, gồm 2 phe: Phe Trục gồm Đức, đế quốc Áo hung và Thổ Nhĩ Kỳ; bên kia là Phe Đồng minh, gồm Pháp, Anh, Nga, sau đó có Hoa kỳ. Càng về sau, Đức thấy là không thể một lúc đương đầu với 2 mặt trận: mặt trận đông bắc với Nga, và mặt trận tây nam với Pháp, muốn dồn lực lượng xuống tây nam. Lợi dụng cơ hội, lúc đó Lénine đang sống lưu vong ở Thụy sĩ, liền tuyên bố: “ Hòa bình bằng bất cứ giá nào. Ngay dù phải nhượng đất để có quyền, chúng ta cũng sẽ làm”. Chính vì vậy mà Bộ Tham mưu Đức đã giúp Lénine tiền bạc, đưa từ Thụy sĩ về Nga. Với số tiền này, Lénine đã đưa cho Trotski mở khóa huấn luyện những đội cảm tử làm cách mạng. Và Trotski đã làm cuộc đảo chính vào tháng 10/19717. Chữ mà Trotski dùng lúc ban đầu. Ông viết: “ Sau một đêm ngủ, thức giấc dậy, dân Moscou đã thấy bộ mặt của thành phố thay đổi. Cuộc đảo chính làm 7 người chết và 50 người bị thương.” 
Cuộc đảo chính này chẳng có sự tham dự của nhân dân và thợ thuyền như tuyên truyền cộng sản sau này rêu rao.

Vì đi theo triết lý bạo động lịch sử, đấu tranh giai cấp, nên ngay từ đầu trong nội bộ đảng cộng sản do Lénine lập ra, đã có những sự đấu đá, thanh trừng lẫn nhau khốc liệt, mà nạn nhân đầu tiên là Lénine.
Vào cuối đời, Lénine bị bệnh giang mai, do nhiều sử gia và bác sĩ nói. Tuy nhiên vào lúc đó chưa có thuốc trụ sinh để chữa trị, người ta chỉ dùng độc dược để giảm con đau, mỗi khi lên cơn. Người lo chăm sóc Lénie không ai hơn là Staline. Một khi biết Lénine không còn tin tưởng mình nữa, Staline đã cho Lénine uống quá liều thuốc, đưa đến cái chết, như lời tố cáo của vợ Lénine. Cuộc đấu đá to lớn thứ nhì đó là giữa Trotski và Staline. Sau cùng Trotski đã thua, đổi họ, đổi tên, chạy trốn sang Mễ tây cơ. Tuy nhiên, Staline vẫn cho người dò hỏi, sau đó giết Trotski.
 Cộng sản Tàu và cộng sản Việt Nam cũng vậy, thanh trừng nội bộ bằng cách này hay cách khác.  
 Một nền tảng triết lý tốt cho Trung cộng và Việt Nam
  Người bình dân Việt Nam có câu “ Nghĩ làm sao, chiêm bao làm vậy “.
Đức Đạt Lai Lạt ma, trong một cuộc đối thoại với một nhà thần học người Brazil, Leonardo Boff, có nói: 
“Hãy suy tư cẩn thận vì Tư Tưởng sẽ biến thành Lời Nói.
Hãy ăn nói cẩn thận vì Lời Nói sẽ biến thành Hành Động.
Hãy hành xử cẩn thận vì Hành Động sẽ biến thành Thói quen.
Hãy chú trọng Thói Quen vì chúng hình thành Nhân Cách.
Hãy chú trọng Nhân Cách vì nó hình thành Số Mệnh,
và Số Mệnh của anh sẽ là Cuộc Đời của anh 
Không có tôn giáo nào cao trọng hơn Sự Thật.” 
 Số mệnh là do chính anh tạo ra cho anh qua cách suy nghĩ, lời nói và việc làm thường ngày của anh. Điều này không những đúng với mỗi cá nhân, đối với giai tầng lãnh đạo, mà còn đúng với cả một quốc gia, dân tộc.
Suy nghĩ, tư tưởng đây chính là khởi đầu của triết lý. Suy nghĩ, tư tưởng, triết lý sai, thì hành động sẽ sai. 
 Suy nghĩ, tư tưởng, triết lý chủ trương bạo động, thì hành động trở nên bạo động. Thêm vào đó, Marx chủ trương vứt bỏ mọi đạo đức cổ truyền, ngay dù những giá trị cổ truyền còn có giá trị và hơn thế nữa còn có tinh cách toàn cầu: “ Bởi lẽ đó, chủ nghĩa cộng sản loại bỏ tất cả những chân lý muôn thuở; nó loại bỏ tôn giáo và đạo đức thay vì cải tạo nó, nó đi ngược lại tất cả mọi sự phát triển lịch sử trước đó “ ( K. Marx Sách đã dẫn – trang 44). Vì thế xã hội cộng sản, không còn đạo đức, kỷ cương bị đảo lộn, con người tìm cách cấu xé lẫn nhau, những vụ chém giết nhau vì tiền, con giết cha, giết mẹ, thầy hiếp dâm học trò, là chuyện bình thường, cũng là vì đi theo lời dạy của Marx.
 Bởi lẽ đó, quả là một điều cấp bách, đối với những xã hội cộng sản còn lại, đặc biệt là Trung cộng và Việt nam, phải mau chóng từ bỏ  triết học Mác lê làm nền tảng cho chế độ, thay thế bằng một nền tảng triết học khác.
 Vậy đâu là nền tảng triết học mới cho 2 nước trên ?
Có người cho rằng để tạo ra một nền tảng triết lý mới thật là khó khăn.
Không phải hoàn toàn như vậy. Chúng ta cứ xét sự phát triển thành công, hài hòa của Nhật và những nước mới như Nam Hàn, Đài Loan, Singapour, rồi chúng ta suy nghiệm và tìm ra triết lý nền tảng:
 Kinh nghiệm của những nước phát triển Á châu, hiện nay, bắt đầu bởi Nhật, người ta thấy rõ rằng để phát triển cần phải có sự hài hòa giữa cũ và mới, giữa những cái tốt đẹp của truyền thống giáo dục, đạo đức cổ truyền và sự du nhập gạn lọc những cái hay, cái đẹp của thế giới bên ngoài. Nói một cách khác đi, chúng ta có thể ví đời sống văn hóa, văn minh của một dân tộc như một cái cây: rễ cây là quá khứ, cần phải đi sâu vào lòng đất để hút nhựa, thân cây là hiện tại cần phải to lớn để chuyển nhựa, cành lá là tương lai, phải rườm rà để hút cái hay thập phương. Quan niệm vứt bỏ quá khứ như triết lý của Marx chẳng khác nào chặt rễ cây, làm sao cây có thể sống, nói chi đến lớn mạnh.
Ở điểm này, khi xét sự phát triển của Nhật từ trước đến giờ, chúng ta thấy rõ nhất. Nếu nói đến quốc gia phát triển thứ nhì thế giới, thì chính là nước Nhật, chứ không phải là Trung cộng, vì người ta chỉ nói đến tổng sản lượng quốc gia, vì tổng sản lượng của Trung cộng là 6 988,5 tỷ $, của Nhật là 5 855,4 tỷ, sau Hoa kỳ là 15 064,8 tỷ. Sở dĩ như vậy là vì dân Tàu đông tới 1,353 tỷ người; trong khi dân Nhật là 128,1 triệu. Nếu tính theo sản lượng bình quân đầu người hàng năm, thì Nhật gấp gần 9 lần Trung cộng, với con số 45 773,8 $, trong khi Trung cộng là 5 163,9 $, Hoa kỳ là 48 147,2 $. ( Theo Le Monde – Le Bilan du Monde – Edition 2012). Hơn thế nữa, xã hội Nhật là một xã hội phát triển về đủ mọi mặt, về vật chất và cả về tinh thần. Dân Nhật được coi là một trong số dân có văn hóa, đạo đức nhất. Chỉ cần lấy hình ảnh của một em bé trong trận động đất ở Fukushima vừa qua chúng ta cũng rõ. Em bé là một trong những trăm ngàn nạn nhân, mất gia đình, mất cha mẹ, anh chị em. Em đứng xếp hàng để được phát thức ăn, những người lớn đã thấy tội nghiệp, nhường em. Nhưng em từ chối. Từ đó, nhìn vào Trung cộng và Việt nam hiện nay, theo triết lý “ duy vật “ của Marx, con người coi con người như kẻ thù, cấu xé lẫn nhau, tìm đủ mọi cách để có tiền, tham nhũng, hối lộ, làm hàng giả, đâm chém nhau chỉ vì mấy trăm, mấy chục $, nói chi đến việc xắp hàng thứ tự. 
Nhiều người, khi nói đến sự phát triển của Nhật, chỉ nghĩ đến thời Minh trị Thiên Hoàng, lên ngôi năm 1848, và bắt đầu công cuộc cải cách từ đây. Điều này không sai. Nhưng chưa đủ. Nước Nhật từ thế kỷ thứ 6, với hoàng tử Shotoku ( 574 – 622), đã biết tổng hợp đạo giáo, gồm Thần giáo tức đạo dân gian Nhật, Phật giáo và Nho giáo, trong tinh thần này là đã có sự phối hợp hài hòa giữa cái gì của mình và cái của người đến từ những nước chung quanh như Tàu và Ấn độ. Hơn thế nữa hoàng tử Shotoku còn cho ra đời một hiến pháp, vào năm 604, trong đó có câu: “ Chúng ta không tất yếu là triết nhân quân tử, và người khác cũng không tất yếu là kẻ ngu. Tất cả chúng ta là những người bình thường. “ ( Nous ne sommes pas nécessairement des sages et les autres ne sont pas nécessairement des sots. Nous sommes tous des hommes ordinaires). Khác hẳn với những người tự cho mình là « Đỉnh cao trí tuệ của loài người tiến bộ «, nhưng tụt hậu về mọi phương diện, từ vật chất đến tinh thần.
 Nước phát triển thứ nhì ở châu Á phải nói đến Nam Hàn, về cả vật chất lẫn tinh thần, vì cũng biết giữ lại những giá trị tốt đẹp cổ truyền và đồng thời nhập cảng gạn lọc những cái gì hay của thế giới. Tổng sản lượng của Nam Hàn là 1 163,8 tỷ$, với dân số là 49 triệu người, sản lượng tính theo đầu người hàng năm là 23 749,2 $, gấp hơn 4 lần Trung cộng. Nam Hàn hiện nay đứng đầu trong nhiều lãnh vực khoa học. Chỉ cần lấy lãnh vực điện thoại cầm tay là lãnh vực khoa học cao cấp hiện giờ. Hãng Samsung đứng đầu về con số sản xuất, sau mới là hãng Apple của Hoa kỳ, thứ ba mới là hãng Nokia của một nước bắc Âu. Không những thế, về tinh thần, giới lãnh đạo Nam hàn được coi là giới lãnh đạo có liêm sỉ, tự trọng và trong sạch nhất. Chỉ cần nói đến trường hợp một vị cựu tổng thống nam Hàn, vì dính dáng tới tham nhũng, không phải ông, mà là người nhà của ông, vói 50 000$, mà ông đã tự tử.
Từ đó nhìn sang Trung cộng và Việt Nam, giới lãnh đạo cao cấp, có ai là không tham nhũng, không phải là 50 000 $ mà cả tiền triệu $, tích  lũy tài sản lên tới bạc tỷ $, thế mà miệng vẫn rêu rao chống tham nhũng, chống hối lộ.
 Liêm sỉ, nhân cách con người để ở đâu ? Phải chăng vì « Triết lý duy vật « đã cướp mất ?
 Chúng ta chỉ cần nhìn 2 nước Nam Hàn và Bắc Hàn thì rõ. Một nước tôn trọng giá trị đạo đức cổ truyền, đồng thời thu nhập những cái hay cái đẹp một cách gạn lọc của tây phương. Một nước nhập cảng không suy nghĩ triết lý Marx, chối bỏ tất cả những tốt đẹp cổ truyền, năm nào cũng bị đe dọa bởi đói kém, đưa một người miệng còn hơi sữa lên làm lãnh tụ, rồi tìm đủ mọi cách để trét phấn, bôi son, nào là «  Thiên tài về chiến lược « , «  Lãnh tụ tối cao của dân tộc « v.v...
 Tấm gương đã quá rõ, thế mà ở Trung cộng và ở Việt nam vẫn còn có người bám vào triết lý Mác Lê.
 Không nói đâu xa, chúng ta cứ trở về 2 nền Cộng hòa miền Nam Việt Nam, trước năm 1975, thì chúng ta cũng thấy rõ. Trước năm 1975, miền Nam Việt nam, với 2 nền Cộng hòa, phát triển hài hòa về cả 2 mặt vật chất và tinh thần, hơn cả Nam hàn và Đài Loan, nước phát triển thứ 3 hiện nay của châu Á, với tổng sản lượng là 504,6 tỷ $, dân số là 23,2 triệu dân, sản lượng tính theo đầu người là 21 591,8$. Trước năm 75, chính Đài loan đã bắt chước áp dụng luật Người cày có ruộng, của nền Đệ Nhị Cộng hòa miền Nam. Về thể chế chính trị, miền Nam không thể sánh với những nước dân chủ tân tiến, nhưng miền Nam có một thể chế tương đối dân chủ nhất trong vùng, chỉ sau Nhật bản. 
Chính những nhà kinh tế cộng sản, như Lê đăng Doanh, trong một bài phỏng vấn trên đài BBC, phải công nhận rằng, sau 75, ông vào miền quê miền Nam, ông đã nhận thấy một sự phát triển không ngờ của hạ tầng cơ sở kinh tế miền nam. Thế rồi cộng sản vào, phá hủy tất, theo đúng như triết lý của Marx, không những vật chất, qua những cuộc “Đánh tư bản, mại sản”, mà cả tinh thần, đốt sách, vứt bỏ tất cả những cái hay cái đẹp của văn hóa cổ truyền, làm cho xã hội Việt Nam ngày hôm nay không còn căn bản đạo đức, sống xô bồ, chen chúc, đạp lên nhau để tồn tại, trên đủ mọi phương diện, mọi lãnh vực, từ giới lãnh đạo, đến người dân đen. Tham nhũng hối lộ hoành hoành, bất công càng ngày càng to lớn.
 “ Nghĩ làm sao, chiêm bao làm vậy “, xin nhắc lại câu châm ngôn Việt nam.” 
Dựa trên nền tảng triết học nào, thì sự phát tiển xã hội sẽ theo tinh thần triết lý đó.
Triết lý của Marx lấy sự bất bình thường làm sự bình thường qua quan niệm đấu tranh giai cấp, bạo động lịch sử, thêm vào đó lại có một số người cộng sản, nhất là giới lãnh đạo, hiểu chủ nghĩa “ Duy vật “ ở nghĩa thấp nhất là tôn sùng vật chất, chạy theo vật chất, tiền bạc, làm cho xã hội Trung cộng và Việt Nam đi đến tình trạng ngày hôm nay.
Bởi lẽ đó, để có một sự phát triển hài hòa, bớt bất công tham nhũng, ở quốc nội, và có thể sống hòa bình với quốc ngoại, thì hai nước này nên vứt bỏ triết lý Mác Lê, bắt chước những nước Nhật, Nam Hàn, Đài loan, dựa trên một nền tảng triết học, tôn trọng những giá trị nhân bản, toàn cầu cổ truyền, đồng thời thâu nhận một cách khôn ngoan, gạn lọc những cái gì hay của thế giới. (1)    

Paris ngày 17/08/2013
 Chu chi Nam
 (1)    Xin xem thêm những bài phê bình lý thuyết của Marx, trên: http://perso.orange.fr/chuchinam/