Nobel kinh tế năm 2011 cho Sargent và Sims
Trần Vinh Dự
Ngày
10 tháng 10 vừa qua, Viện Hàn lâm Khoa học Thụy Điển vừa công bố tên
người được chọn để trao giải Nobel kinh tế năm 2011. Hai giáo sư người
Mỹ là Thomas J. Sargent và Christopher A. Sims trở thành đồng chủ nhân
của giải năm nay vì “các nghiên cứu thực nghiệm của hai ông về quan hệ nhân quả trong kinh tế vĩ mô”.
Giáo
sư Sargent sinh năm 1943 tại thành phố Pasadena, bang California, Mỹ.
Ông tốt nghiệp tiến sĩ kinh tế tại Đại học Harvard năm 1968, tức là khi
ông mới 25 tuổi. Ông từng giảng dạy, nghiên cứu ở nhiều nơi, và hiện là
giáo sư tại Đại học New York (NYU) ở trung tâm của thành phố New York,
Mỹ.
Giáo
sư Sims sinh trước giáo sư Sargent đúng một năm tại thủ đô Washington
DC của Mỹ. Ông nhận bằng tiến sĩ cùng một khóa với giáo sư Sargent. Hiện
nay ông đang giảng dạy tại Đại học Princeton của bang New Jersey, Hoa
Kỳ.
Hai
bạn đồng khóa cùng tốt nghiệp tiến sĩ kinh tế từ Harvard 43 năm trước
giờ đây lại có dịp hội ngộ. Không phải trên giảng đường của trường
Harvard mà là trên bục nhận giải thưởng cao quý nhất trong lĩnh vực khoa
học kinh tế của nhân loại. Cùng với các giá trị về tinh thần, hai ông
còn được nhận một khoản tiền thưởng 10 triệu SEK, tương đương khoảng 1,5
triệu USD.
Cơ
sở để Viện Hàn lâm Khoa học Thụy Điển xét trao giải cho Giáo sư Sargent
và Giáo sư Sims là chuỗi các nghiên cứu thực nghiệm của hai ông trong
lĩnh vực kinh tế vĩ mô.
Sự tiến hóa của kinh tế vĩ mô
Trước thập kỷ 70, kinh tế học vĩ mô và kinh tế học vi mô là hai mảng tách biệt. Kinh tế học vi mônghiên cứu về hành vi của người tiêu dùng và của doanh nghiệp dựa trên các giả định về thị hiếu (preferences), kỳ vọng, và các khuynh hướng tự có của mỗi người (như phản ứng của họ trước rủi ro). Thí dụ một nhà kinh tế học vi mô sẽ nghiên cứu thị hiếu của người tiêu dùng đối với các sản phẩm hàng hóa có khả năng thay thế nhau dưới dạng một hàm số lợi ích –
theo đó lợi ích của một cá nhân được thể hiện dưới dạng phương trình
toán học gắn với các yếu tố riêng của tất cả các sản phẩm như giá cả và
chất lượng. Nhà kinh tế học vi mô sẽ
tính toán được một người tiêu dùng cụ thể trong trường hợp đó sẽ lựa
chọn như thế nào. Và khi kết hợp các lựa chọn của nhiều cá nhân lại thì hàm số cầu cho mỗi mặt hàng sẽ ra sao. Trên cơ sở đó, nhà kinh tế học vi mô sẽ
tính toán tiếp được các doanh nghiệp muốn tối đa hóa lợi nhuận của mình
sẽ phải thực hiện các chiến lược về sản phẩm và về giá như thế nào cho
hợp lý.
Trong khi đó, kinh tế vĩ mô nghiên
cứu về các chỉ số chính của nền kinh tế như GDP, tỷ lệ lạm phát, tỷ lệ
thất nghiệp, tổng mức cung tiền, năng xuất của toàn bộ nền kinh tế… Kinh
tế học vĩ mô tìm
cách giải thích sự vận động của các chỉ số vĩ mô theo thời gian và sự
ảnh hưởng của các chính sách kinh tế của nhà nước như thắt chặt hoặc nới
lỏng về tài khóa và tiền tệ lên các chỉ số này. Thí dụ, kinh tế vĩ mô
trước năm 1970 nghiên cứu về quan hệ giữa lạm phát và thất nghiệp trong
ngắn hạn và dài hạn. Mô tả quan hệ trong ngắn hạn, khái niệm “đường
Phillips” cho rằng lạm phát tăng thì thất nghiệp giảm, và ngược lại.
Trong dài hạn, người ta cho rằng nền kinh tế ở trạng thái cân bằng dài
hạn thì lạm phát (biểu hiện của việc nới lỏng tiền tệ) không ảnh hưởng
gì tới thất nghiệp, vì thế đường Phillips phải là đường thẳng đứng.
Từ những năm 1970s, một xu thế mới của kinh tế học vĩ mô là xây dựng các mô hình kinh tế vĩ môdựa trên nền tảng của kinh tế học vi mô.
Xu thế mới này xuất hiện từ sự thất bại của việc ứng dụng các lý thuyết
cũ vào việc giải thích các hiện tượng kinh tế vĩ mô mới phát sinh trong
giai đoạn lịch sử đó. Thí dụ câu chuyện về các nền kinh tế bị lạm phát
đình đốn (stagflation)
– tức là vừa có lạm phát cao vừa có thất nghiệp cao. Những hiện tượng
mới này mâu thuẫn trực tiếp với các kết quả của lý thuyết kinh tế vĩ mô
cũ như câu chuyện về đường Phillips ở trên.
Các nhà kinh tế vĩ mô bắt đầu nhìn nhận lại rằng nếu không dựa vào các hiện tượng vi mô mà chỉ thuần túy phân tích các chỉ số vĩ mô thì
không thể tìm được lời giải cho các vấn đề trên. Họ bắt đầu nhận ra
quan hệ giữa các chính sách của nhà nước (một khái niệm của kinh tế vĩ mô) và kỳ vọng của thị trường (một khái niệm của kinh tế vi mô)
có quan hệ tương tác chặt chẽ với nhau. Các chính sách ảnh hưởng tới
nền kinh tế, nhưng nền kinh tế cũng ảnh hưởng tới các chính sách. Kỳ vọng về tương lai là
yếu tố chính trong mối quan hệ hai chiều này. Kỳ vọng của khu vực tư
nhân về hoạt động kinh tế và chính sách kinh tế trong tương lai sẽ ảnh
hưởng tới các quyết định của họ về tiền lương, về tiết kiệm, và đầu tư.
Tương tự như thế, các chính sách kinh tế cũng bị ảnh hưởng bởi các kỳ
vọng về điều gì sẽ xảy ra trong khu vực tư nhân.
Vì
thế, quyết định kinh tế của khu vực tư nhân tại thời điểm hiện tại phụ
thuộc vào kỳ vọng của họ về các chính sách trong tương lai của nhà nước.
Tương tự như thế, các chính sách tương lai của nhà nước cũng bị ảnh
hưởng bởi kỳ vọng của nhà nước về sự vận hành của nền kinh tế trong
tương lai. Về mặt ý tưởng việc này không quá khó hiểu. Tuy nhiên, về mặt
thực nghiệm lại là chuyện khác.
Các
mô hình thực nghiệm phải sử dụng được các chuỗi số liệu của quá khứ và
phỏng đoán được tương lai. Việc phát hiện và chứng minh sự tồn tại của
quan hệ nhân quả (yếu tố này là hậu quả của yếu tố khác) là việc luôn
luôn khó thực hiện. Trong kinh tế vĩ mô thực nghiệm, việc này trở nên khó hơn nhiều lần nữa nếu đưa vào trong các mô hình thực nghiệm này yếu tố kỳ vọng.
Kỳ vọng là yếu tố kết nối hành vi hiện tại (thí dụ quyết định chính
sách tài khóa, tiền tệ của nhà nước hay quyết định về tiết kiệm và tiêu
dùng của hộ gia đình) với các yếu tố kinh tế trong tương lai. Vì thế,
nảy sinh vấn đề cực kỳ khó khăn là: Liệu một sự thay đổi trong nền kinh
tế có phải là kết quả của một chính sách kinh tế trước đó? Hay là ngược
lại, kỳ vọng về
sự thay đổi của nền kinh tế có từ trước khi chính sách kinh tế đó tồn
tại, và là yếu tố làm cho chính sách kinh tế đó ra đời? Các cách hiểu
khác nhau sẽ dẫn tới các khuyến nghị về chính sách rất khác nhau.
Đóng góp của Sargent và Sims
Và
ở đây ghi nhận dấu ấn đóng góp của Sargent và Sims. Các phương pháp
thực nghiệm do hai ông phát triển trong nhiều năm đã cho chúng ta cách
để phân tích và phát hiện các quan hệ nhân quả này một cách chính xác.
Từ đó, có thể rút ra các khuyến nghị chính xác về chính sách kinh tế.
Hai ông đi theo hai con đường khác nhau, nhưng bổ sung cho nhau, và kết
hợp lại trở thành một bộ công cụ phân tích tuyệt vời cho giới nghiên cứu kinh tế vĩ mô thực nghiệm.
Thomas
Sargent là cha đẻ của cách tiếp cận kinh tế vĩ mô định lượng theo hướng
cấu trúc (structural macroeconometrics). Ông đã chỉ ra cách phân tích
các mô hình kinh tế vĩ mô hiện đại dựa hoàn toàn trên nền tảng của kinh
tế học vi mô và
ông đã chỉ ra hiệu quả tuyệt vời của phương pháp này trong nhiều ứng
dụng khác nhau. Nói một cách tổng quát hơn, Sargent đã đi tiên phong
trong việc nghiên cứu thực nghiệm về sự hình thành kỳ vọng. Ông không
những chỉ cho người ta thấy kỳ vọng quan trọng thế nào trong các phân
tích kinh tế vĩ mô, mà còn đi đầu trong các nghiên cứu về việc hình
thành kỳ vọng. Ông đã áp dụng các phương pháp này vào việc nghiên cứu về
chính sách tiền tệ và rút tỉa được những kết luận quan trọng cho nghiên
cứu về chính sách tiền tệ thông qua các phân tích của ông về lịch sử
lạm phát của nhiều quốc gia khác nhau trên thế giới.
Christopher
Sims phát triển một phương pháp phân tích được gọi là vector
autoregression (VAR) – một công cụ phân tích thực nghiệm – để phân tích
việc nền kinh tế phản ứng như thế nào với các thay đổi ngắn hạn về chính
sách và các yếu tố khác. Sims dẫn đầu trong việc ứng dụng phương pháp
VAR vào phân tích các chuỗi số thiệu thời gian (time series), trong dự
đoán, và trong phân tích chính sách. Ông và nhiều người khác đã áp dụng
phương pháp này vào phân tích nhiều vấn đề khác nhau, thí dụ, các tác
dụng của việc Ngân hàng Trung ương nâng lãi suất. Thường thì nó sẽ mất
khoảng một vài năm để lạm phát hạ nhiệt, trong khi nền kinh tế lại giảm
tốc độ tăng trưởng dần dần ngay từ trong ngắn hạn và sẽ không quay lại
con đường tăng trưởng cũ trong vài năm sau khi chính sách nâng lãi suất
đã bị dỡ bỏ.
Mặc
dù Sargent và Sims thực hiện các công trình nghiên cứu của mình một
cách độc lập, các đóng góp của hai ông có thể bổ sung cho nhau về nhiều
mặt. Gộp chung lại, các đóng góp của hai ông không chỉ thuần túy là
trung tâm của tất cả các nghiên cứu vĩ mô định lượng, mà hơn thế không
thể tưởng tượng nổi các nghiên cứu vĩ mô định lượng của ngày hôm nay sẽ
như thế nào nếu thiếu các nghiên cứu của hai ông. Các phương pháp do hai
ông đề xuất trong các thập kỷ 70 và 80 của thế kỷ trước hiện nay được
giới học giả và các nhà hoạch định chính sách sử dụng rộng rãi khắp nơi
trên thế giới.
Với các cống hiến lớn lao như vậy, hai ông đã được Viện Hàn lâm Khoa học Thụy Điển trao tặng Giải Nobel Kinh tế của năm 2011.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét