Thứ Ba, 08 tháng 11 2011
Hiệu ứng bàng quan-bystanderism
Nguyễn Hưng Quốc
Liên quan đến vấn đề vô cảm ở Việt Nam hay Trung Quốc,
ngoài các lý do chính trị, xã hội, luật pháp và văn hóa mà chúng ta đã bàn, còn
một lý do khác thuộc tâm lý xã hội cần được biết: hiệu ứng bàng quan (bystander
effect) hay còn được gọi là hội chứng Genovese (Genovese syndrome).
Hai thuật ngữ này đồng nghĩa vì ý niệm hiệu ứng bàng
quan được nảy sinh ra từ vụ án Catherine Kitty Genovese ở New York vào năm
1964. Genovese là một cô gái 28 tuổi, đi làm đến 3 giờ sáng mới về nhà trong
một chung cư khá đông đúc. Từ chiếc xe đậu dọc đường lên phòng mình, Genovese
bị một gã đàn ông tấn công và hãm hiếp. Sự việc xảy ra khoảng hơn nửa tiếng
đồng hồ ngay trước chung cư. Mặc cho Genovese kêu cứu thảm thiết, không có ai
cứu giúp cả. Cô bị thương, nằm gục bên lề đường. Mười phút sau, thủ phạm quay
trở lại, đâm cô thêm mấy nhát nữa. Vẫn không có ai ra tay.
Cái chết của Genovese, qua sự tường thuật của báo New
York Times vào ngày 27 tháng 3 năm 1964, gây chấn động dư luận nước Mỹ thời bấy
giờ. Không phải vì bản thân vụ án. Chuyện hãm hiếp hay giết người không xa lạ
gì đối với người dân Mỹ. Điều khiến mọi người bàng hoàng kinh ngạc và băn khoăn
chính là sự thờ ơ của những người chung quanh. Nhất là sau khi được biết, theo
tường thuật của báo chí, lúc ấy, có khoảng 38 người trong chung cư nghe tiếng
gào thét của Genovese nhưng vẫn bất động. Sau này, kết quả các cuộc điều tra
khác cho thấy con số 38 nhân chứng này có phần hơi phóng đại, bao gồm cả những
người chỉ nghe kể lại hơn là nghe tận tai hay nhìn tận mắt những gì xảy ra đêm
hôm ấy. Dù vậy, vấn đề vẫn cứ gây nhức nhối: Tại sao những người ấy lại không
làm gì cả?
Câu hỏi tại sao ấy theo đuổi nhiều nhà nghiên cứu Mỹ,
trong đó, nổi bật nhất là hai nhà tâm lý học xã hội nổi tiếng John Darkley và
Bibb Latané. Từ năm 1968 đến 1980, nghĩa là suốt 12 năm, họ thực hiện hơn bốn
chục cuộc thí nghiệm khác nhau (ví dụ dàn cảnh cướp bóc hay đánh đập) để xem
phản ứng của người qua đường. Tất cả các cuộc thí nghiệm đều được quay phim.
Sau đó họ phân tích phản ứng của những người chung quanh. Năm 2008, hai nhà
nghiên cứu khác, Mark Levine và Simon Crowther, lại tiếp tục đề tài đã được
Darkey và Latané khởi xướng. Năm 2011, một cuộc điều tra khác, với một quy mô lớn,
do giáo sư Peter Fisher và một số đồng nghiệp ở Đức thực hiện (The
Bystander-Effect: A Meta-Analytic Review on Bystander Intervention in Dangerous
and Non-Dangerous Emergencies), soi sáng nhiều góc cạnh của vấn đề hơn.
Kết quả các cuộc thí nghiệm và điều tra ấy cho thấy có
khá nhiều nguyên nhân khiến người ta dửng dưng trước người bị nạn. Trong đó có
hai nguyên nhân chính. Thứ nhất là ảnh hưởng xã hội, hoặc còn được gọi là sự
“vô tri đa nguyên” (pluralistic ignorance): Tâm lý của con người là, khi chứng
kiến một tai nạn, thường nhìn quanh xem phản ứng của người khác. Nếu những
người khác ấy không làm gì, người ta cũng nghĩ là bản thân mình cũng không cần
làm gì cả. Việc “không làm gì cả” được xem là một lựa chọn tối ưu. Thứ hai là
sự khuếch tán trách nhiệm (diffusion of responsibity): Càng có đông người chứng
kiến một tai nạn, người ta càng dễ có khuynh hướng cho trách nhiệm cứu giúp là
thuộc về ai đó, một người nào khác, chứ không phải mình. Nhất là, người ta dễ
nghĩ, trong đám đông, có những người có khả năng và thích hợp hơn (ví dụ: cảnh
sát, bác sĩ hay y tá). Cuối cùng, vì ai cũng nghĩ thế, nên không ai làm gì.
Thành ra dửng dưng.
Điều cần chú ý là hiệu ứng bàng quan không chỉ xảy ra
khi người ta đối diện với những tai nạn cụ thể, ngay trước mắt. Nó còn được áp
dụng cho những trường hợp lớn hơn, mang tầm vóc thế giới: Khi chứng kiến những
tai nạn hay những tội ác lớn ở một quốc gia nào đó, như nạn đói khiến cả hàng
ngàn, thậm chí, hàng trăm ngàn người chết (như ở nhiều quốc gia Phi châu) hay
nạn diệt chủng cũng như họa độc tài dẫn đến cái chết tập thể của hàng triệu
người, phần lớn nhân loại vẫn có tâm lý bàng quan, xem những việc đó thuộc
trách nhiệm của ai khác. Của các chính khách. Của các tổ chức nhân đạo. Còn
mình thì vẫn có thể án binh bất động mà không hề thấy lương tâm áy náy chút nào
cả.
Người ta gọi đó là thứ tính cách hay chủ nghĩa bàng
quan (bystanderism).
Ở Việt Nam, tâm lý bàng quan chủ nghĩa ấy rõ ràng là
càng ngày càng bành trướng mạnh mẽ và trở thành một nguy cơ không những đối với
đạo đức mà còn trong lãnh vực chính trị, ảnh hưởng đến an nguy của cả quốc gia.
Tâm lý ấy xem mọi vấn đề của đất nước, từ các vấn đề giáo dục với hiện tượng
bằng giả và chất lượng xuống cấp đến các vấn đề xã hội với sự lan tràn của tham
nhũng và tội phạm, vấn đề kinh tế với ảnh hưởng đến mức đe dọa của Trung Quốc,
và quan trọng nhất, nguy cơ xâm lấn của Trung Quốc, không những ở các hòn đảo
xa xôi mà còn ở rừng núi cho thuê, ở các dự án có ý nghĩa quốc phòng nằm trong
tay Trung Quốc...đều thuộc về trách nhiệm của ai khác.
Giới lãnh đạo càng củng cố tâm lý bàng quan chủ nghĩa
ấy bằng cách tước bỏ trách nhiệm của mọi người dân, giành hết trách nhiệm về
phần mình. Nhưng ở phần họ, dưới danh nghĩa lãnh đạo tập thể, hầu như không ai
có trách nhiệm gì rõ ràng cả. Cuối cùng, những vấn đề quan trọng nhất của quốc
gia đều bị bỏ mặc.
Tương đương với khái niệm hiệu ứng bàng quan hay chủ
nghĩa bàng quan trong tiếng Anh, tiếng Việt có một chữ rất hay, được phổ biến
từ lâu trong dân chúng: chủ nghĩa mackeno.
+Phải nâng cao dân trí- đạo đức rất quan trọng-câu chuyện cậu bé người Nhật chờ phấn phối thực phẩm trong cơn động đất -sóng thần vừa qua là một minh chứng
Lời bình: Giải pháp để giải quyết vấn đề?
Gần đây có câu chuyện nữ tài xế xe bus tại Trung Quốc bị cưỡng hiếp chỉ có 1 người duy nhất trên xe ngăn cản còn lại là mackeno và kế cục rất có hậu!!
+Phải có luật pháp nghiêm minh+ sự can thiệp của cơ quan có thẩm quyền (nhà nước) khẩn cấp -kịp thời 911 hay 113- 115??+Phải nâng cao dân trí- đạo đức rất quan trọng-câu chuyện cậu bé người Nhật chờ phấn phối thực phẩm trong cơn động đất -sóng thần vừa qua là một minh chứng
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét