Thứ Hai, 14 tháng 6, 2021

2021 Vaccine Pfizer và Moderna phối hợp?

 Vaccine Pfizer và Moderna phối hợp?  

Bs Dương Diệu

 Virus Corona rất phổ biến ở cả người và động vật. Virus có vỏ bọc (enveloped virus) này gồm một sợi RNA dương bản (+). Hầu hết các virus hoàn chỉnh có hình cầu với các protein gai (spike glycoprotein, còn gọi là protein S) gắn trên vỏ ngoài. Ngoài ra, virus còn có các protein cấu trúc khác bao gồm protein Envelope (E), Matrix (M) và Nucleocapsid (N). [1]

1. Protein gai: (Spike) Phát hiện một vị trí có thể được phân cắt bởi enzyme giống furin trong protein gai của SARS-CoV-2 nhưng không có trong các virus Corona tương tự SARS khác; mang lại tiềm năng trong việc phát triển các thuốc kháng virus. [2]

2. Tá chất (adjuvants) Là chất tiêm cùng với kháng ngyên để tăng cường khả năng miễn dịch. Cơ chế tác dụng của tá chất còn chưa biết rõ, tuy nhiên chúng làm tăng diện tích bề mặt của kháng nguyên làm kháng nguyên giải phóng chậm hay kéo dài, hoặc hoạt hóa đại thực bào hay các tế bào khác. 

Sinh miễn dịch: Bề mặt của protein gai trên vỏ bọc của virus bị bao phủ bởi glycans có nguồn gốc từ vật chủ. Những glycans này tạo điều kiện để virus lẩn trốn hệ miễn dịch bằng cách che chắn các epitope khỏi sự nhận diện bởi kháng thể. Gen mã hóa protein S của SARS-CoV-2 S mã hóa 22 chuỗi peptide có thể gắn glycan bằng liên kết N trên mỗi vùng gen khởi động. Sử dụng cách tiếp cận bằng khối phổ tại mỗi vùng cụ thể, các tác giả cho thấy các cấu trúc glycan này có trên một loại kháng nguyên tái tổ hợp chứa protein S của virus SARS-CoV-2. [3]

Định lượng kháng thể sau tiêm vaccine:  Nồng độ kháng thể sau tiêm vaccine COVID-19 từ 15AU/mL là đáp ứng miễn dịch với virus SARS-CoV-2. Nồng độ kháng thể dưới 12AU/mL là chưa đáp ứng miễn dịchNhững người đã tiêm 1 mũi vaccine ngừa COVID-19 có kháng thể với virus SARS-CoV-2 với định lượng trung bình là 67.53AU/mL - gấp khoảng 4-5 lần so với ngưỡng đáp ứng miễn dịch.  Người đã được tiêm đủ 2 mũi vaccine COVID-19 có định lượng kháng thể này là 278.81AU/mL trong vòng sau 1 tuần., cao gấp khoảng 18 lần so với ngưỡng đáp ứng miễn dịch. 2 tuần tiếp theo, định lượng này tăng lên hơn 21 lần. Kháng thể thì có thể chia 2 loại: - Kháng thể liên kết (binding antibody) gồm: IgM, IgG, IgA....- Kháng thể trung hòa (neutralizing antibody). Do đó xét nghiệm định lượng kháng thể hiện nay chỉ thể hiện được lượng IgG, nó không phản ánh được tổng lượng kháng thể cơ thể tạo ra (các kháng thể hòa tan và kháng thể liên kết khác). Vì vậy nếu chỉ dựa vào chỉ số IgG đơn độc đánh giá tình trạng miễn dịch là không có nhiều ý nghĩa. Ngoài ra, một hàng rào cực kỳ quan trọng, hơn cả lượng kháng thể cao bao nhiêu - đó chính là các tế bào nhớ, các B cell memory... Khi virus hay một phần virus xâm nhập vào cơ thể, ngoài việc sinh ra các loại kháng thể kể trên, cơ thể chúng ta còn có một đội ngũ các tế bào nhớ. Đội ngũ này sẽ ghi nhớ bộ mặt virus hoặc kháng nguyên. Các tế bào này tồn tại rất lâu, được tính bằng nhiều năm. Và khi có virus xâm nhập lần tiếp theo, các tế bào này sẽ nhận ra và nhanh chóng khởi động hệ thống, sản xuất ồ ạt các kháng thể để tiêu diệt mầm bệnh. Sự tồn tại của các tế bào này không thể hiện trên các xét nghiệm thông thường chúng ta đang làm

3. Sản xuất vắc-xin công nghệ mRNA: Pfizer và Moderna:

3.1     Sản xuất vắc-xin Pfizer: một quy trình ba giai đoạn.

Giai đoạn 1: liên quan đến việc nhân bản phân tử của các plasmid DNA mã cho protein đột biến bằng cách truyền chúng vào vi khuẩn Escherichia coli. tại một nhà máy thí điểm nhỏ của Pfizer ở Chesterfield, Missouri. Sau bốn ngày phát triển, vi khuẩn bị giết và mở ra, và các chất bên trong tế bào của chúng được tinh lọc trong hơn một tuần rưỡi để thu hồi sản phẩm DNA mong muốn. DNA được đóng chai và đông lạnh để vận chuyển. Việc vận chuyển DNA một cách an toàn và nhanh chóng ở giai đoạn này là rất quan trọng nên Pfizer đã sử dụng máy bay phản lực và máy bay trực thăng của công ty để hỗ trợ. 

Giai đoạn 2: đang được tiến hành tại nhà máy Pfizer ở Andover, Massachusetts ở Hoa Kỳ, và tại nhà máy của BioNTech ở Đức. DNA được sử dụng làm khuôn mẫu để xây dựng các sợi mRNA mong muốn, mất khoảng 4 ngày. Khi mRNA đã được tạo ra và tinh chế, nó được đông lạnh trong các túi nhựa có kích thước bằng một túi mua sắm lớn, trong đó mỗi túi có thể chứa tới 10 triệu liều. Các túi được đặt trên xe tải để đưa chúng đến nhà máy tiếp theo.

Giai đoạn 3: đang được tiến hành tại các nhà máy Pfizer ở Portage, Michigan ở Hoa Kỳ, và Puurs ở Bỉ. Giai đoạn này bao gồm việc kết hợp mRNA với các hạt nano lipid, sau đó lấp đầy các lọ, lọ đấm bốc và làm đông lạnh chúng. Công ty con Avanti Polar Lipids của Croda International đang cung cấp chất béo cần thiết. Kể từ tháng 11 năm 2020, điểm nghẽn chính trong quá trình sản xuất là kết hợp mRNA với các hạt nano lipid. Ở giai đoạn này, chỉ mất bốn ngày để chuyển từ mRNA và lipid đến lọ thành phẩm, nhưng mỗi lô sau đó phải trải qua vài tuần trong bảo quản đông lạnh sâu trong khi trải qua quá trình xác minh đối với 40 biện pháp kiểm soát chất lượng.

3.2     Công nghệ của Moderna: sử dụng hợp chất RNA thông tin đã được biến đổi nucleoside (modRNA) có tên mã là mRNA-1273. Khi hợp chất ở bên trong tế bào người, mRNA sẽ liên kết với lưới nội chất của tế bào. mRNA-1273 được mã hóa để kích hoạt tế bào tạo ra một protein cụ thể bằng cách sử dụng quy trình sản xuất bình thường của tế bào. Vắc xin mã hóa một phiên bản của protein đột biến với một sửa đổi được gọi là 2P, trong đó protein bao gồm hai đột biến ổn định trong đó các axit amin ban đầu được thay thế bằng proline, được phát triển bởi các nhà nghiên cứu tại Đại học Texas ở Austin và Viện Dị ứng Quốc gia. và Trung tâm Nghiên cứu Vắc xin Bệnh Truyền nhiễm. Một khi protein bị trục xuất khỏi tế bào, cuối cùng nó sẽ được phát hiện bởi hệ thống miễn dịch, bắt đầu tạo ra các kháng thể hiệu quả. Hệ thống phân phối mRNA-1273 sử dụng hệ thống phân phối thuốc dạng hạt nano lipid PEGyl hóa  Vắc xin chứa các thành phần hoạt chất là một trình tự mRNA chứa tổng số 4101 nucleotide mã hóa glycoprotein có chiều dài đầy đủ của SARS-CoV-2 (S), với hai đột biến (K986P và V987P) được thiết kế để ổn định cấu trúc tiền dung hợp. Trình tự được tối ưu hóa thêm bởi: tất cả các uridin (U) được thay thế bằng N1-methylpseudouridin được bao bọc bởi vùng 5 'chưa được phiên dịch (UTR) nhân tạo và 3' UTR có nguồn gốc từ gen alpha globin của người (HBA1), kết thúc bằng đuôi 3 'poly (A). mRNA của vắc xin được hòa tan trong dung dịch đệm chứa tromethamine, tromethamine hydrochloride, natri axetat và sucrose. mRNA được bao bọc trong các hạt nano lipid giúp ổn định mRNA và tạo điều kiện cho nó xâm nhập vào tế bào. [3]

3.3 Công nghệ vector: Vắc-xin Oxford-AstraZeneca COVID-19:  là một vectơ virus adenovirus (virus cúm gây bệnh ở tinh tinh) thiếu sao chép, chứa trình tự mã hóa tối ưu codon có chiều dài đầy đủ của protein đột biến SARS-CoV-2 cùng với trình tự dẫn đầu của chất kích hoạt plasminogen mô (tPA). Adenovirus được gọi là thiếu sao chép vì một số gen thiết yếu của nó đã bị xóa và được thay thế bằng một gen mã hóa cho protein đột biến. Sau khi tiêm chủng, vectơ adenovirus xâm nhập vào tế bào và giải phóng các gen của nó, được vận chuyển đến nhân tế bào. Sau đó, bộ máy của tế bào thực hiện phiên mã thành mRNA và dịch mã thành protein. Protein được quan tâm là protein đột biến, một protein bên ngoài cho phép coronavirus loại SARS xâm nhập vào tế bào thông qua miền enzym của ACE2 . Sản xuất nó sau khi tiêm phòng sẽ thúc đẩy hệ thống miễn dịch tấn công coronavirus thông qua các kháng thể và tế bào T.

3. 4. Công nghệ protein tái tổ hợp:  Vaccin Nanocovax Vietnam: Nanogen sử dụng công nghệ protein tái tổ hợp nghĩa là tạo protein S (gai) giống như protein của Covid 19. Trong 1 liều vaccin có nhiều protein S khi tiêm vào cơ thể sẽ tạo miễn dịch trực tiếp.[4]

4. Khác nhau /giống nhau và sự kết hợp: Việc phát triển vắc-xin cho hội chứng hô hấp cấp tính nặng coronavirus 2 (SARS-CoV-2) tập trung vào protein tăng đột biến trimeric khởi phát nhiễm trùng. Mỗi protomer trong nhánh trimeric có 22 vị trí glycosyl hóa. Cách các vị trí này được glycosyl hóa có thể ảnh hưởng đến những tế bào nào mà vi-rút có thể lây nhiễm và có thể bảo vệ một số biểu mô khỏi sự trung hòa kháng thể. Watanabe và cộng sự. biểu hiện và tinh chế các trime xoắn nhọn glycosyl hóa tái tổ hợp, phân giải protein để tạo ra glycopeptide chứa một glycan duy nhất, và xác định thành phần của các vị trí glycan bằng phương pháp khối phổ. Phân tích cung cấp một điểm chuẩn có thể được sử dụng để đo chất lượng kháng nguyên khi vắc xin và xét nghiệm kháng thể được phát triển [5]. Kháng thể tạo bởi vaccine và kháng thể do nhiễm virus khác nhau.[6].Hai loại kháng thể: Kháng thể liên kết (binding antibody) gồm: IgM, IgG,IgA...và Kháng thể trung hòa (neutralizing antibody). Xét nghiệm định lượng kháng thể hiện nay chỉ thể hiện được lượng IgG,

Như vậy:

1. Sự khác nhau giữa 2 công nghệ vector của AstraZeneca và công nghệ mRNA của Pfizer/Moderna nên cơ thể tạo ra proteine S là không giống nhau hoàn toàn và như thế kháng thể (IgG/IgA/IgM...) sinh ra về số lượng/ chất lượng sẽ có khác nhau. Như vậy khả năng phối hợp cần nghiên cứu tiếp. Ngoài ra nhiều nghiên cứu gần đây cho thấy virus ngoài gai còn lớp vỏ cũng có khả năng xâm nhập cơ thể.

2.   Pfizer và Moderna sử dụng cùng công nghệ mRNA sản sinh tế bào có protein spike để cơ thể tạo kháng thể (đặc hiệu) diệt tế bào có protein spike.(SARS-CoV-2 IgG antibodies) nhưng kỹ thuật của 2 hãng này là khác nhau cũng như  trong 1 loại thuốc có hoạt chất giống nhau.(cùng cơ chế tác dụng) nhưng tá dược khác nhau. Như vậy có thể có khả năng phối hợp nhưng cần đánh giá hiệu quả.

 Kết luận: Khi tiêm vaxin cơ thể sinh kháng thể  gọi là miễn dịch thể dịch thì cơ thể còn có cơ chế miễn dịch tế bào để chống lại virus một khi nó xâm nhập. Tiêm vaccine để tạo kháng thể thì mỗi loại vaccine có cơ chế khác nhau để tạo kháng thể về số lượng, chất lượng sẽ khác nhau. Việc xét nghiệm kháng thể chỉ nói lên số lượng chưa phải chất lượng vaccine. Do đó muốn biết kháng thể có hiệu quả trong tiêm trộn các vaccine cần phải qua thử nghiệm lâm sàng ngẫu nhiên đối chứng (RCT), mới kết luận được sự bảo vệ của việc tiêm trộn với nhau. 

Tham khảo:

1. https://covidreference.com/virology_vn

2. Coutard B, Valle C, de Lamballerie X, Canard B, Seidah NG, Decroly E. The spike glycoprotein of the new coronavirus 2019-nCoV contains a furin-like cleavage site absent in CoV of the same clade. Antiviral Res. 2020 Apr;176:104742. PubMed: https://pubmed.gov/32057769. Fulltext: https://doi.org/10.1016/j.antiviral.2020.104742

3.  https://quangdieu09.blogspot.com/2021/06/2021-thuoc-chung-ngua-oxford.html

4. Bộ Y Tế. Hỏi đáp về sử dụng vaxin trong phòng, chống covid 19. Nhà xuất bản y hoc Hà Nội 2021:58-59   http://hocvienquany.edu.vn/covid/index.html?fbclid=IwAR1B5qYeell5TNv5d7B54bqLt8hMHt-eASfVQ-dijCPe8etPOsMDdFv-Wjc

5. Watanabe Y, Allen JD, Wrapp D, McLellan JS, Crispin M. Site-specific glycan analysis of the SARS-CoV-2 spike. Science. 2020 May 4. PubMed: https://pubmed.gov/32366695. Full-text: https://doi.org/10.1126/science.abb9983

6. https://www.youtube.com/watch?v=WUWAg147BDw&t=1104s


 







 

 

 

 

 

 

 

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét