Đại thừa và Tiểu
thừa
Tiểu
thừa (zh. 小乘, sa. hīnayāna,
bo. theg dman) nghĩa là
"cỗ xe nhỏ". Tiểu thừa được một số đại biểu phái Đại thừa (sa. mahāyāna) thường dùng chỉ những
người theo "Phật giáo nguyên thuỷ", "Phật giáo Nam Tông"
với ý đả kích, miệt thị. Ngày nay ý nghĩa chê bai của danh từ này đã mất đi và
nó chỉ còn có tính chất miêu tả. Nhiều nhà nghiên cứu Phật giáo có ý định thay
thế danh từ này nhưng không đạt kết quả vì danh từ này đã khắc sâu trong tư
tưởng của nhiều Phật tử. Một từ chỉ những vị theo Phật giáo nguyên thuỷ thường gặp trong kinh là Thanh văn(zh. 聲聞, sa. śrāvaka).
Vấn đề Đại thừa và Tiểu
thừa
Trước đây
những người theo Đại Thừa thường cho rằng giáo lý Nguyên thủy là giáo lý Tiểu
thừa không đưa đến quả vị tối hậu thành Phật, chỉ có giáo lý Ðại thừa mới là
giáo lý chân chính của Phật.
Ngược lại, các nhà sư "Tiểu thừa" thì cho rằng giáo lý Tiểu thừa mới
chính là giáo lý nguyên thủy của Phật, còn giáo lý Ðại thừa đã mất đi tính
nguyên bản chân thực của lời dạy Đức Phật. Sự bất đồng quan điểm ấy đã làm băng
giá mối quan hệ của hai truyền thống cả ngàn năm. Ngày nay với những phương
tiện khảo cứu sử liệu, những quan điểm Tiểu thừa và Ðại thừa không còn thích
hợp. Qua nghiên cứu, cho thấy rằng:
1.
Thời kỳ Phật giáo
Nguyên thủy cho đến thời kỳ Bộ phái (sau Ðức Phật 400 năm) chưa có danh từ Ðại
thừa hay Tiểu thừa.
2.
Danh từ Tiểu thừa
nên hiểu là Thượng tọa bộ và Thuyết nhất thiết hữu bộ. Ngày nay chỉ còn 2 hệ
Tiểu thừa này có mặt trên thế giới.
3.
Từ ít lâu nay người
ta có khuynh hướng tránh dùng từ ngữ "Tiểu thừa" vì từ này được dùng bởi
những người không hiểu rõ căn bản Đạo Phật và mang tính miệt thị. Do đó, 2 danh
từ Phật giáo Bắc Tông và Phật giáo Nam Tông được dùng để phổ biến thay thế.
4.
Giáo lý được phân
làm hai truyền thống theo địa lý, truyền thừa, và được gọi là Phật giáo Bắc tông
và Phật giáo Nam
tông. Phật Giáo Bắc Tông theo khuynh hướng phát triển lời Phật, còn Phật Giáo
Nam Tông theo khuynh hướng bảo thủ (giữ nguyên giá trị) lời dạy của Đức Phật và
các các vị Thánh Tăng thuyết trong 5 bộ Kinh Nikaya.
5.
Truyền thống Bắc
Tông và Nam Tông có những khác biệt, tuy nhiên, những khác biệt ấy không cơ
bản. Trái lại, những điểm tương đồng lại rất cơ bản như sau:
1.
Cả hai đều nhìn nhận Ðức Phật Thích ca là bậc Ðạo sư.
2.
Cả hai đều chấp nhận
và hành trì giáo lý Tứ thánh đế, Bát chánh đạo, Duyên khởi...;
đều chấp nhận pháp ấnKhổ, Không, Vô ngã;
đều chấp nhận con đường tu tập: Giới-Ðịnh-Tuệ.
Tóm lại,
Kinh tạng Nguyên thủy, hiện nay có 5 bộ, là tập hợp những lời dạy nguyên thủy
nhất của Đức Phật là kinh tạng ghi chép lại những lời Phật thuyết và Thánh
chúng một cách đầy đủ nhất. Kinh tạng này mang tính thiết thực gần gũi với tâm
lý con người và sự sinh hoạt của xã hội Ấn Độ. Ðây là cơ sở giáo lý mà chúng ta
lấy làm nền tảng cho mọi nghiên cứu, thực tập. Không nên chê bai Tiểu Thừa hạ
liệt, căn cơ yếu kém như tư tưởng trước thời thầy Thích Minh Châu dịch ra Bộ
Kinh Nikaya (Kinh Tiểu Thừa).
Tuy nhiên,
trải qua hơn 400 năm khẩu truyền và hơn 2000 năm truyền bá, kinh giáo không
tránh khỏi sự thêm bớt của người thọ trì(?!), nghĩa là vẫn không mang tính
Nguyên thủy "thuần túy". Mặc dù vậy, Đạo Phật có Tứ Diệu Đế là chân
lý rốt ráo cùng tột và 3 pháp ấn là 3 chân lý không thể nào chối cãi là
"Các pháp hữu vi là Khổ, Vô Thường, Vô Ngã" và pháp vô vi là Vô Ngã.
Người học Phật cần phải soi sáng mọi lời dạy (trong Kinh Nam Tông, Bắc Tông hay
các tác giả viết sách về Đạo Phật) xem coi nó có mâu thuẫn với Tứ Diệu Đế và
Tam Pháp Ấn hay không? Nếu mâu thuẫn thì nên cẩn thận trước những tư tưởng của
người khác mà Kinh Kalama, Phật đã dạy trong Tăng Chi Bộ: "- Như vậy, này các Kàlàmà,
điều Ta vừa nói với các Ông: "Chớ có tin vì nghe báo cáo, chớ có tin vì
nghe truyền thuyết; chớ có tin vì theo truyền thống; chớ có tin vì được kinh
điển truyền tụng; chớ có tin vì lý luận suy diễn; chớ có tin vì diễn giải tương
tự; chớ có tin vì đánh giá hời hợt những dữ kiện; chớ có tin vì phù hợp với
định kiến; chớ có tin vì phát xuất từ nơi có uy quyền, chớ có tin vì vị Sa-môn
là bậc đạo sư của mình. ". Nhưng này các Kàlàmà, khi nào tự mình biết rõ
như sau: "Các pháp này là bất thiện; Các pháp này là đáng chê; Các pháp
này bị các người có trí quở trách; Các pháp này nếu thực hiện và chấp nhận đưa
đến bất hạnh khổ đau", thời này Kàlàmà, hãy từ bỏ chúng! Ðiều đã được nói
lên như vậy, chính do duyên như vậy được nói lên."
Cũng như
Đức Phật đã từng nhấn mạnh nhiều lần về sự khổ và diệt khổ, trong Kinh Ví Dụ
Con Rắn, Trung Bộ Kinh: "Này các tỳ kheo, xưa cũng như nay, ta chỉ nói lên
khổ và sự diệt khổ".
Đức Phật
cũng nhấn mạnh vào Bát Chánh Đạo cần phải tu tập cho đúng nghĩa của nó: “Này Subhadda, trong pháp luật nào
không có Bát Thánh Đạo, thời ở đấy không có đệ nhất Sa Môn, ở đấy không có đệ
nhị Sa Môn, cũng không có đệ tam Sa Môn, cũng không có đệ tứ Sa Môn. Này
subhadda trong pháp luật nào có Bát Thánh Đạo thời ở đấy có đệ nhất Sa Môn, đệ
nhị Sa Môn, cũng có đệ tam Sa Môn, cũng có đệ tứ Sa Môn. Những hệ thống ngoại
đạo khác đều không Sa Môn. Này suhadda, nếu những vị Tỳ kheo này sống chân
chánh, thời đại này không vắng những vị A La Hán”. (Kinh Trường Bộ tập I trang
659, kinh Đại Bát Niết Bàn)
Hoặc như
trong Tiểu Bộ Kinh – Samanabramana Sutta – Sa môn chân chánh – Phật Thuyết Như
Vậy, Thích Minh Châu dịch Việt, Phật dạy: "Này
các Tỳ kheo, những Sa môn và Bà la môn nào không hiểu biết như thật “Ðây là
khổ”, không hiểu biết như thật “Ðây là khổ nhân”, không hiểu biết như thật “Ðây
là khổ diệt”, không hiểu biết như thật “Ðây là con đường đưa đến khổ diệt” thời
này các Tỳ kheo, những Sa môn và Bà la môn ấy không được ta thừa nhận là Sa môn
trong hàng Sa môn hay Bà la môn trong hàng Bà la môn, và các tôn giả ấy, ngay
trong đời này, cũng không tự mình chứng đạt thắng trí và an trú trong sự thành
tựu mục đích của Sa môn và Bà la môn." Nghiên cứu kinh điển Phát triển (Kinh
Bắc Tông)và các bài Kinh khác của Nam Tông mà không nắm vững hệ thống Nguyên
thủy (Tứ Diệu Đế và 37 phẩm trợ đạo) thì rất thiếu sót, có thể dẫn đến sai lầm
nghiêm trọng. Nếu coi Kinh tạng Nguyên thủy là "thấp kém" thì rất là
sai lầm và nguy hiểm. Cây đại thọ giáo pháp phải là một cây hoàn hảo từ gốc rễ
cho đến ngọn ngành. Tu sĩ Nam Tông và Bắc Tông cần phải lịch sự, khiêm tốn, nhã
nhặn, thể hiện sự văn minh, tiếp thu ý kiến của nhau nếu có dịp cùng nhau đàm
đạo Phật Pháp. Trên con đường thoát khỏi sự khổ đau, không nên phân cao thấp vì
mục đích thắng thua cá nhân. Hãy biết tự tu tập để cứu mình và cứu người khác
khỏi sự nghiệt ngã của Khổ Đế.
Phân chia bộ phái
Trong thời
kỳ Đức Phật chuyển pháp luân và trước đại hội kết tập kinh điển lần thứ 2, đạo
Phật không có tông phái nào. Đó là thời kỳ Đạo Phật Nguyên Thủy hay còn gọi là
thuần túy. Trong lần kết tập thứ hai, Tăng-già phân ra thành hai phái: Trưởng
lão bộ (zh. 長老部, sa. sthavira) và Đại chúng bộ (zh. 大眾部, sa. mahāsāṅghika). Giữa năm 280 và 240 trước Công nguyên, Đại chúng bộ lại
được chia thành sáu phái: Nhất thuyết bộ (zh. 一說部, sa. ekavyāvahārika),
Khôi sơn trụ bộ (zh. 灰山住部, sa. gokulika). Từ Nhất thuyết bộ
lại sinh ra Thuyết xuất thế bộ (zh. 說出世部, sa. lokottaravāda).
Từ Khôi sơn trụ bộ lại tách ra 3 bộ phái là Đa văn bộ (zh. 多聞部, sa. bahuśrutīya), Thuyết giả bộ
(zh. 說假部, sa. prajñaptivāda) và Chế-đa sơn bộ
(zh. 制多山部, sa. caitika). Từ Trưởng lão bộ (sa. sthavira) của thời gian đó,
khoảng năm 240 trước Công nguyên, phái Độc Tử bộ (zh. 犢子部, sa. vātsīputrīya) ra đời, gồm có
bốn bộ phái nhỏ là Pháp thượng bộ (zh. 法上部, sa. dharmottarīya),
Hiền trụ bộ (zh. 賢胄部, sa. bhadrayānīya), Chính lượng bộ
(zh. 正量部, sa. sāṃmitīya) và Mật lâm
sơn bộ (zh. 密林山部, sa.sannagarika, sandagiriya). Từ Trưởng lão bộ
(sa. sthavira) lại xuất
phát thêm hai phái: 1. Thuyết nhất thiết hữu bộ (zh. 說一切有部, sa. sarvāstivāda),
từ đây lại nảy sinh Kinh lượng bộ (zh. 經量部, sa. sautrāntika)
khoảng năm 150 trước Công nguyên và 2. Phân biệt bộ (zh. 分別部, sa. vibhajyavāda). Phân biệt bộ tự
xem mình là hạt nhân chính thống của Trưởng lão bộ. Từ Phân biệt bộ này sinh ra
các bộ khác như Thượng toạ bộ (zh. 上座部; pi. theravāda),
Hoá địa bộ (zh. 化地部, sa.mahīśāsaka)
và Ẩm Quang bộ (zh. 飲光部; cũng
gọi Ca-diếp bộ 迦葉部, sa. kāśyapīya). Từ Hoá địa bộ (sa. mahīśāsaka) lại sinh ra Pháp
Tạng bộ (zh. 法藏部, sa. dharmaguptaka).
Giáo lý
Tiểu thừa
được phát triển mạnh nhất từ khi Phật nhập Niết-bàn đến Công nguyên. Đại biểu phái này cho
rằng mình theo sát những lời dạy nguyên thuỷ của Đức Phật, do chính Đức Phật
nói ra. Giới luật của Tiểu thừa hoàn toàn dựa vào Luật tạng.
Trong A-tì-đạt-ma, Tiểu thừa dựa trên Kinh tạng để
phân tích và hệ thống hoá giáo lí của Phật.
Tiểu thừa
tập trung tuyệt đối vào con đường đi đến giải thoát Niết Bàn. Tiểu thừa phân
tích rõ trạng thái của đời sống con người, bản chất sự vật, cơ cấu của chấp ngã
và chỉ ra phương pháp giải thoát khỏi sự Khổ (sa. duḥkha). Tất cả các
trường phái Tiểu thừa đều có một quan điểm chung về sự vật đang hiện hữu: khổ
có thật, phải giải thoát khỏi cái Khổ. Giải thoát khỏi luân hồi (sa., pi. saṃsāra), thoát khỏi
sự tái sinh và đạt Niết-bàn (sa. nirvāṇa) là mục đích cao
nhất của Tiểu thừa. Muốn đạt được mục đích này, hành giả phải dựa vào sức mình,
độc cư thiền định (Tứ Thiền) và thiền tuệ (Tứ Niệm Xứ). Vì vậy Tiểu thừa quan
niệm phải sống viễn li, sống cuộc đời của một bậc tu hành chân chính thanh cao,
phạm hạnh đầy đủ, làm gương cho các tu sĩ đời sau. Đối với Tiểu thừa, cuộc sống
tại gia khó đưa đến sự giải thoát rốt ráo, nghĩa là đạt đến A la hán, điều này
là noi gương theo phạm hạnh của Đức Phật (Đức Thế Tôn) cũng đã xuất gian. Tiểu
thừa cũng chấp nhận tại gia, trong Kinh Đại bát Niết Bàn, Trường Bộ Kinh và các
bài Kinh khác thuộc Nikaya, tỳ kheo Thích Minh Châu dịch thì các vị tại gia vẫn
chứng đắc được Đạo Quả rất nhiều. Hình ảnh tiêu biểu của Tiểu thừa là A-la-hán (sa. arhat),
là người dựa vào tự lực tu tập để giải thoát, chứng Niết Bàn giống Phật Thích
Ca. Tiểu thừa khăng khăng "bảo thủ" nguyên xi lời Phật mà không ủng
hộ "phát triển" thêm lời của Phật, tức là họ không chấp nhận sáng tác
Kinh Điển. Tức là Tiểu Thừa không đồng tình với việc "sáng tạo" ra
Kinh Đại Thừa rồi gán ghép là lời của Phật nói. Quan điểm như vậy nên người ta
cho rằng họ là tiểu thừa, chẳng biết tiếp thu học hỏi giáo lý khác. Đây là sự
việc chính gây ra xung khắc đại tiểu. Người học Phật nên nghiên cứu kỹ càng về
Kinh của 2 truyền thừa nếu muốn có cái đánh giá đúng đắn, khách quan về 2 thừa.
Không nên vì tình cảm, cảm tính cá nhân mà có những lời lẽ sai trái. Niết-bàn
đối với Tiểu Thừa là sự đoạn tận tham sân si, thoát khỏi tái sanh luân hồi đau
khổ. Mục đích cuối cùng, là kinh nghiệm của sự giác ngộ (phẩm vị A la hán),
trong đó, hành giả chứng được vô ngã và từ bỏ tham ái, không còn tái sanh chịu
khổ, từ bỏ mọi dính mắc hữu vi và vô vi (Niết Bàn). Đối với Tiểu thừa, Phật là
một nhân vật lịch sử, được xem là một con người từ phàm nhân tu thành Phật và
là thầy dạy, không phải là hoá thân của một thật thể nào, đối chọi với tư tưởng
Tam Thân Phật. Giáo pháp cùng tột của Tiểu thừa gồm có Tứ diệu đế,Duyên khởi (sa. pratītyasamutpāda), Vô ngã (sa. anātman)
và luật nhân quả, Nghiệp (sa. karma), 37 phẩm trợ đạo, Ngũ
Uẩn, 12 xứ, 18 giới v... Phép tu hành của Tiểu thừa dựa trên Bát chính đạo, mở rộng ra là 37 phẩm trợ đạo
được giảng dạy trong Kinh Nikaya, dùng để tu chứng nghiệm Tứ Diệu Đế. Theo quan
điểm riêng của Đại thừa (Cỗ Xe Lớn), sở dĩ phái này được gọi là "tiểu
thừa" (Cổ Xe Nhỏ) vì—ngược lại với chủ trương của Đại thừa là nhằm đưa tất
cả loài hữu tình đến
giác ngộ thành Phật giống Phật Thích Ca —phái Tiểu thừa chỉ quan tâm đến sự
giác ngộ của cá nhân mình. Chủ trương này xem tiểu thừa là giáo pháp sơ cấp của
Phật vì sau đó Phật giảng giáo pháp toàn vẹn hơn, cao cấp hơn là giáo pháp Đại
thừa. Tuy nhiên, quan điểm này cần phải xem xét lại thật cẩn thận vì nếu như
tiểu thừa có ích kỷ chỉ lo giác ngộ cá nhân mình thì làm sao ngày nay Tam Tạm
Kinh Điển Pali (Nikaya) còn tồn tại và lưu truyền cho đến ngày nay? Kinh Tiểu
thừa còn được dịch thuật sang Tiếng Anh, Tiếng Miến, Tiếng Việt, Tiếng Thái,
Tiếng Camphuchia, Tiếng Tích Lan...? Nếu cho rằng tiểu thừa là giáo pháp sơ cấp
là nên xem xét lại vì mục đích của Đạo Phật là Niết Bàn. Điều này được minh
chứng là Phật Thích Ca cũng đã đạt Niết Bàn và khám phá ra Tứ Diệu Đế dạy lại
cho các đệ tử Thanh Văn. Lại nữa, nếu như lý luận tiểu thừa là sơ cấp mà người
ấy không đạt sơ cấp thì làm sao đạt cao cấp? Cho nên có nhiều mâu thuẫn, không
hợp lý thực tế nếu như còn chê bai Tiểu Thừa. Người tu sĩ cả Nam Tông và Bắc
Tông nên khiêm tốn, lịch sự, văn minh khi có dịp đàm đạo với nhau, cùng nhau
tiến bộ, nên ôn hòa đàm đạo xây dựng con đường cứu mình và cứu người. Không nên
khinh rẻ xem thường nhau là phạm vào giới luật.
Đại
thừa (大乘, sa. mahāyāna), dịch âm Hán-Việt là Ma-ha-diễn-na (摩訶衍那) hayMa-ha-diễn (摩訶衍), tức là "cỗ xe
lớn" hay còn gọi là Đại
Thặng tức là "bánh xe
lớn" là một trong hai trường phái lớn của đạo Phật - phái
kia là Tiểu thừa hay Tiểu Thặng, nghĩa là "cỗ xe nhỏ" hay "bánh xe
nhỏ" (sa. hīnayāna)
Xuất hiện
trong thế kỉ thứ nhất trước công nguyên, phái này tự nhận là cỗ xe lớn nhờ dựa
trên tính đa dạng của giáo pháp để mở đường cho một số lớn chúng sinh có thểgiác ngộ.
Cả hai Tiểu thừa và Đại thừa đều bắt nguồn từ vị Phật lịch sử Thích-ca Mâu-ni, nhưng khác nhau nơi sự quan
tâm về thực hành giáo pháp và tư tưởng.(sa.sarvasattva). Hình tượng tiêu
biểu của Đại thừa là Bồ Tát (sa. bodhisattva)
với đặc tính vượt trội là lòng bi (sa., pi. karuṇā). Bộ kinh được
xem là kinh văn Đại thừa đầu tiên làBát-nhã bát thiên tụng (般若八千頌, sa. aṣṭasāhasrikā prajñāpāramitā) định nghĩa Đại thừa như sau.
Vấn Ðề Ðại Thừa và Tiểu
Thừa
Trước đây
ta thường cho rằng giáo lý Tiểu thừa không đưa đến quả vị tối hậu thành Phật,
chỉ có giáo lý Ðại thừa mới là giáo lý chân chính của Phật.
Ngược lại, các nhà sư Tiểu thừa thì cho rằng giáo lý Tiểu thừa mới chính là
giáo lý nguyên thủy của Phật, còn giáo lý Ðại thừa là ngoại đạo. Sự bất đồng
quan điểm ấy đã làm băng giá mối quan hệ của hai truyền thống cả ngàn năm. Ngày
nay với những phương tiện tiến bộ, mọi mặt trong xã hội đều thay đổi, những quan
điểm Tiểu thừa và Ðại thừa không còn thích hợp. Qua nghiên cứu, cho thấy rằng:
1. Thời kỳ Phật giáo Nguyên thủy cho đến thời kỳ Bộ phái (sau Ðức Phật
400 năm) chưa có danh từ Ðại thừa hay Tiểu thừa.
2. Danh từ
Tiểu thừa nên hiểu là Thượng tọa bộ và Thuyết nhất thiết hữu bộ. Ngày nay chỉ còn
2 hệ Tiểu thừa này có mặt trên thế giới.
3. Từ ít
lâu nay người ta có khuynh hướng tránh dùng từ ngữ "Tiểu thừa" vì một
số người không thông hiểu Phật pháp kỹ càng có thể cảm thấy bị tổn thương. Do
đó, 2 khái niệm Phật giáo Bắc Tông và Phật giáo Nam Tông ra đời.
4. Giáo lý
được phân làm hai truyền thống theo địa lý, truyền thừa, và được gọi là Phật
giáo Bắc tông và Phật giáo Nam
tông. Sử dụng từ ngữ Bắc tông và Nam tông nói lên tính xuyên suốt
của cây đại thọ, giáo lý đạo Phật.
Tăng sĩ Phật giáo hệ phái Đại Thừa
5. Mặc dù
truyền thống Bắc Tông và Nam Tông có những khác biệt, tuy nhiên, những khác
biệt ấy không cơ bản. Trái lại, những điểm tương đồng lại rất cơ bản như sau:
a/. Cả hai
đều nhìn nhận Ðức Phật là
bậc Ðạo sư.
b/. Cả hai
đều chấp nhận và hành trì giáo lý Tứ thánh đế, Bát chánh đạo, Duyên khởi...;
đều chấp nhận Tam pháp ấn Khổ, Không, Vô ngã;
đều chấp nhận con đường tu tập: Giới-Ðịnh-Tuệ.
c/. Cả hai
đều từ chối về một đấng tối cao sáng tạo và ngự trị thế giới.
Tóm lại, Kinh tạng Nguyên thủy, nếu
còn hiện hữu, phải là kinh tạng ghi chép lại những lời Phật và Thánh chúng một
cách đầy đủ nhất. Kinh tạng này mang tính thiết thực gần gũi với tâm lý con
người và sự sinh hoạt của xã hội. Ðây là cơ sở giáo lý mà chúng ta lấy làm nền
tảng cho mọi nghiên cứu, thực tập và nhất là hiểu một cách đúng đắn tư tưởng
đạo Phật phát triển.
Tuy nhiên,
trải qua hơn 400 năm khẩu truyền và hơn 2000 năm truyền bá, kinh giáo không
tránh khỏi sự thiếu sót hoặc thêm thắt của người thọ trì, nghĩa là vẫn không
mang tính Nguyên thủy thuần túy. Thực vậy, hiện nay không còn kinh điển nào có
thể gọi là "kinh điển nguyên thuỷ", và vì thế đừng nên lầm lẫn mà cho
rằng đó là kinh điển của Thượng toạ bộ!
Nghiên
cứu kinh điển Phát triển mà không nắm vững hệ thống Nguyên thủy thì độ chuẩn
xác không cao. Nếu coi Kinh tạng Nguyên thủy là "thấp kém" thì rất là
sai lầm và nguy hiểm. Cây đại thọ giáo pháp phải là một cây hoàn hảo từ gốc rễ
cho đến ngọn ngành. Và vì
kinh điển nguyên thuỷ không còn hiện hữu, người nghiên cứu kinh điển nên tham
khảo và đối chiếu kinh điển của mọi tông phái, trước khi đi đến kết luận dứt
khoát về một chủ đề nào đó trong giáo lý Phật đà.
Dịch nghĩa
Sau đó tôn giả Tu-bồ-đề bèn
hỏi Thế Tôn: "Bạch Thế Tôn, như vậy Bồ Tát Ma-ha-tát (sa. mahāsattva)
là một người được trang bị với thiết bị to lớn, người đã khởi hành với Đại Thừa
và đã bước lên Đại Thừa. Vậy thì Đại Thừa này là gì? Làm thế nào biết được
người khởi hành với Đại Thừa này? Đại Thừa dẫn đến nơi nào? Hoặc: Ai khởi hành
với Đại Thừa? Đại Thừa sẽ đứng nơi nào và ai sẽ ra đi với Đại Thừa này?"
Nghe vậy Thế Tôn ứng đáp Tôn giả Tu-bồ-đề:
"Đại Thừa, này Tu-bồ-đề, là biệt danh của sự vô lượng. Chính vì sự vô
lượng này mà nó được gọi là 'vô lượng'. Để trả lời những câu hỏi của Ông 'làm
thế nào biết được người khởi hành với Đại Thừa này? Đại Thừa dẫn đến nơi nào?
Hoặc là: Ai khởi hành với Đại Thừa? Đại Thừa sẽ đứng nơi nào và ai sẽ ra đi với
Đại Thừa này?'—[Ta đáp rằng] ông ta sẽ khởi hành với những Ba-la-mật-đa. Ông ta sẽ ra khỏi tam thế. Ông ta sẽ đến nơi [chúng sinh
cần] hỗ trợ. Ông ta an trú trong nhất thiết trí. Bồ Tát ra đi, nhưng lại chẳng
đi đến nơi nào. Chẳng có ai khởi hành. Ông ta chẳng trú ở nơi nào. Nhưng ông ta
lại trú trong nhất thiết trí—mà không có chỗ trú nào. Cũng chẳng có ai đã ra đi
với đại thừa, chẳng có ai sẽ ra đi với đại thừa, chẳng có ai đang đi với đại
thừa.
Vì sao? Vì người đi và cái được dùng để
đi—cả hai đều chẳng tồn tại, chẳng tìm thấy được. Và như vậy, nếu tất cả những
pháp này không tồn tại thì pháp nào ra đi với pháp nào đây? Và như vậy, này
Tu-bồ-đề, Bồ Tát Ma-ha-tát là một người được trang bị với thiết bị to lớn,
người đã khởi hành với đại thừa và đã bước lên đại thừa."
Nghe như vậy xong Tôn giả bạch Thế Tôn:
"Cỗ xe lớn này, bạch Thế Tôn, được gọi là 'Đại thừa'. Đại thừa này, tương
tự hư không, to lớn phi thường, siêu việt thế gian với thiên, nhân, a-tu-la, và
khởi phát. Như hư không to lớn đủ chỗ dung nạp vô lượng vô số chúng sinh—cũng
như thế, bạch Thế Tôn, đại thừa có đủ chỗ cho vô lượng vô số chúng sinh. Đại
thừa của các vị Bồ Tát Ma-ha-tát lớn như thế này. Ta chẳng thấy được sự đến và
đi của nó. Ngay cả chỗ trú của nó ta cũng chẳng thấy. Và như thế, ta không thấy
được đầu của đại thừa, bạch Thế Tôn, mà cũng chẳng thấy được phần cuối và đoạn
giữa của nó. Bạch Thế Tôn, đại thừa đúng là lớn như vậy. Thế nên người ta gọi
nó là 'Đại thừa'"
Nghe xong Thế Tôn khen Tôn giả Tu-bồ-đề:
"Hay lắm, hay lắm Tu-bồ-đề! Đúng như vậy Tu-bồ-đề, đúng như vậy! Đại thừa
của hàng Bồ Tát Ma-ha-tát là như thế. Sau khi các Bồ Tát Ma-ha-tát tu tập trong
đó xong họ đã, sẽ và đang thành tựu nhất thiết trí."
Đại thừa xuất phát (phần lớn) từ hai nhánh của Tiểu thừa
là Đại chúng bộ (sa. mahāsāṅghika) và Thuyết nhất thiết hữu bộ(sa. sarvāstivādin), lấy từ đó những
yếu tố căn bản của giáo pháp mình: từ Đại chúng bộ, Đại thừa xem Phật là hoá thân của một thật thể siêu
việt, lấy hình ảnh xả thân của các vị Bồ Tát và quan điểm tính Không (sa. śūnya).
Từ Thuyết nhất thiết hữu bộ, Đại thừa thừa nhận quan điểm Tam thân (sa. trikāya). Đại sự (sa. mahāvastu)
một tác phẩm của Thuyết xuất thế bộ(sa. lokottaravādin)—được xếp vào
Đại chúng bộ—nói như sau về tính chất xuất thế, siêu việt của chư Phật:
Nguyên
văn tiếng Phạn
auṣadhaṃ pratisevanti vyādhiś caiṣāṃ na vidyat |
dāyakānāṃ phalaṃ bhavatu eṣā lokānuvarttanā || 14 ||
brabhuś ca karma dhārayituṃ karmaṃ darśenti ca jinā |
aiśvaryaṃ vinigūhanti eṣā lokānuvarttanā || 15 ||
kalpakoṭīṃ asaṃkhyeyaṃ puṇyeṣu pāramiṃgato |
alabdhi upadarśenti eṣā lokānuvarttanā || 21 ||
Dịch nghĩa
Mặc dù dùng dược liệu, nhưng các vị không
mang bệnh. Nghiệp quả (của việc trao dược liệu) đến tới thí chủ. Đó là sự hoà
hợp với thế gian. || 14 ||
Mặc dù có thể đè nén nghiệp lực, các thắng
giả (sa. jina) vẫn cho
thấy nghiệp—chư vị che giấu uy lực của mình. Đó là sự hoà hợp với thế gian. ||
15 ||
Đã đạt toàn vẹn công đức từ vô lượng kiếp,
chư vị vẫn cho người thấy không đạt được gì. Đó là sự hoà hợp với thế gian. ||
21 ||
Ngược lại
với quan điểm nguyên thuỷ, Đại thừa không quá nhấn mạnh đến đời sống xuất gia,
cho rằng cư sĩ tại gia cũng có thể đạt Niết-bàn với
sự tế độ của chư Phật và chư Bồ Tát. Hình tượng cư sĩ Duy-ma-cật trong Duy-ma-cật sở thuyết kinh là ví dụ tiêu biểu nhất cho trường hợp
này. Cách xưng hô trong kinh cũng có khác đi đôi chút. Những lời dạy trong kinh
giờ đây được hướng thẳng đến giới cư sĩ như: Thiện
nam tử (sa. kulaputra), thiện nữ sinh (sa. kuladuhitṛ), như câu hỏi của tôn giả Tu-bồ-đề trong Kim Cương kinh cho thấy:
Thưa Thế Tôn, thiện nam tử hoặc thiện nữ
sinh đã khởi hành với Bồ Tát thừa nên an trụ như thế nào, nên thực hành như thế
nào, nên điều phục tâm như thế nào?
Theo quan
điểm Đại thừa, Niết-bàn không phải chỉ là giải thoát khỏi Luân hồi—mà
hơn thế nữa, hành giả giác ngộ về Chân tâm và an trụ trong đó. Mỗi chúng sinh
đều mang Phật tính (sa. buddhatā)
và nhận ra điều đó là điều tuyệt đối quan trọng.
Đại thừa
lại được chia ra nhiều bộ phái khác nhau, xuất phát từ Ấn Độ và truyền qua Tây Tạng, Trung Quốc, Hàn Quốc,Nhật Bản và Việt Nam.
Tại Ấn Độ, Đại thừa đã chia ra Trung quán tông (sa. mādhyamika)
do Long Thụ (sa. nāgārjuna)
đề xuất và Duy thức tông (sa. vijñānavādin, yogācārin) do Vô Trước (sa. asaṅga) và Thế Thân (sa. vasubandhu)
sáng lập. Song song với Tantra (Mật tông)
của Ấn Độ giáo, đạo Phật cũng sản sinh ra một trường phái là Kim cương thừa (sa.vajrayāna), rất thịnh hành
tại Tây Tạng. Thuộc về Đại thừa tại Trung Quốc và Nhật Bản, người ta có thể kể
đến Thiền tông,Hoa Nghiêm tông, Thiên Thai tông, Tịnh Độ tông. Giáo lí căn bản của Đại thừa được
chứa đựng trong những bộ kinh (sa.sūtra) và luận (sa. śāstra) với nhiều luận văn hết
sức sâu sắc.
Tóm tắt:
- Nam tông : Đi vào qua đường phía Nam , qua Thái Lan , Cam pu chia rồi vào miền nam Việt Nam về giáo lý thì lấy kinh sách Đại thừa , khó hiểu. Về cách tu hành thì trung thành với nguyên bản hình mẫu là cách tu hành của Phật Tổ Khi du nhập từ Ấn Độ sang các nước có nền văn hóa khác thì vẫn kiên quyết giữ nguyên bản Nam tông Việt Nam : Các nhà sư cuốn khăn làm tăng bào chứ không mặc quần áo , ngày ăn 1 bữa trước 12 giờ trưa nhưng lại ăn cả thịt (tịnh nhục)
- Bắc tông : Khởi nguồn từ bắc Ấn Độ , đi qua Tây Tạng rồi vào Trung Quốc , truyền xuống Bắc Việt Nam về giáo lý thì lấy kinh sách dễ hiểu , dễ tiếp cận với người mới gia nhập nhưng ...cho nên mới có vụ Đường Tăng thỉnh kinh , tức là thỉnh kinh Đại Thừa bởi ở Đại Đường lúc đó chỉ có kinh Tiểu Thừa , rồi kể từ đó trở đi Bắc tông mới có kinh Đại Thừa để giảng dạy Về cách tu hành thì nhu nhuyễn biến chuyển cho hợp với văn hóa bản địa chứ không bảo thủ như những người theo Đại Thừa
Bắc tông Việt Nam : Các nhà sư mặc quần áo đàng hoàng , ngày ăn 3 bữa nhưng ăn chay
Cả 2 tông dung nhập vào văn hóa Việt Nam thì quan trọng nhất là bỏ việc đi khất thực , cả Nam lẫn Bắc
Các sư ở Cam pu chia và Thái Lan là đi khất thực HÀNG NGÀY GIỐNG PHẬT TỔ .