Để hiểu thuốc chủng ngừa Covid
https://quangdieu09.blogspot.com/2021/06/2021-thuoc-chung-ngua-oxford.html
xem thêm
Hệ bạch huyết và miễn dịch
Bs Dương Diệu
Lục quan:
- 1 Thị giác=Mắt
2 Thính giác=Tai - 3 Vị giác.=Họng
4 Khứu giác =Mũi
5 Xúc giác=Da
6 Miễn dịch=Bạch huyết2. Xuất huyết giảm tiểu cầu do vaccine ngừa covi 19 thuộc type quá mẫn nào? a Type1; b T2; cT3; dT43. HLA B5 Behcet Tam chứng ?[=Miệng aphto,Mắt Viêm mống mủ TP, Sinh dục viêm loét]4. HLA B27?[=Reiter (VKM+Vkhớp+Viêm niệu đạo)+Viêm cứng khớp sống+Ruột viêm]5. Viêm mắt đồng cảm thuộc quá mẫn type ?
Hệ bạch huyết
Nghe nhìn nhanh: Hệ bạch huyết đẩy dịch và các phân tử lớn vào hệ tuần hoàn và nó tham gia giám sát hệ miễn dịch: https://www.youtube.com/watch?v=NPmrOzJfB58
Tham khảo: Bách khoa toàn thư mở
Wikipedia https://vi.wikipedia.org/wiki/H%E1%BB%87_b%E1%BA%A1ch_huy%E1%BA%BFt
Hệ bạch huyết là một phần của hệ miễn dịch của động vật có xương sống chống lại mầm bệnh, các dị vật và các tế bào biến dạng (ung thư). Ngoài nhiệm vụ bảo vệ cơ thể nó cũng là một phần của hệ tuần hoàn có nhiệm vụ cân bằng thể dịch, hấp thu chất béo. Nó bao gồm bạch huyết, mạch bạch huyết, mô bạch huyết, hạt/mấu bạch huyết, hạch bạch huyết, hạch họng, lá lách, và tuyến ức.
Hệ bạch huyết được hai người Olaus Rudbeck và Thomas Bartholin độc lập với nhau mô tả
lần đầu tiên vào thế kỷ 17. Không giống như hệ tuần hoàn, hệ
bạch huyết không phải là một hệ thống đóng.
Chức năng [sửa | sửa mã nguồn]
Cân
bằng thể dịch[sửa | sửa mã
nguồn]
Mỗi ngày có khoảng 30 lít dịch đi từ
các mao mạch máu vào dịch kẽ, trong đó chỉ có 27 lít đi ngược trở
lại. Nếu 3 lít còn lại vẫn ở lại dịch kẽ, sẻ gây phù làm
tổn thương mô và cuối cùng là tử vong. Nhờ có hệ bạch huyết 3 lít dịch này
được đi vào các mao mạch bạch huyết. Các dịch này gọi là bạch huyết. Bạch huyết
đi qua mạch bạch huyết rồi trở về máu. Cùng với nước, bạch huyết chứa các chất tan lấy từ hai nguồn:
·
Các chất trong huyết tương, như
các ion, các chất dinh dưỡng,
các khí, và một số protein, đi từ mao
mạch máu vào dịch kẽ và trở thành thành phần của bạch huyết.
·
Các chất lấy từ các tế bào như các hormone, các enzym[
và các chất thải, cũng được
tìm thấy trong bạch huyết.
Hấp
thu chất béo[sửa | sửa mã
nguồn]
Hệ bạch huyết hấp thụ các chất béo và các
chất khác từ đường tiêu hóa.
Các mạch bạch huyết gọi là các bạch mạch
– lacteal (đọc:
lak'te-al) nằm ở lớp lót ruột non. Mỡ đi vào các lacteal và đi qua các mạch
bạch huyết vào vòng tuần hoàn tĩnh mạch. Bạch huyết đi qua các mạch bạch huyết
này, gọi là dưỡng trấp – chyle (đọc:kil),
có dạng sữa vì có chứa mỡ.
Bảo
vệ [sửa | sửa mã nguồn]
Các vi thể và các dị vật đổ vào bạch huyết
và máu từ các hạch bạch huyết và lá lách.
Thêm nữa, các tế bào bạch huyết và
các tế bào khác có khả năng tiêu hủy các vi thể và các dị vật này.
Cơ chế [sửa | sửa mã nguồn]
Ba cơ chế chính chịu trách nhiệm cho chuyển
dịch của bạch huyết trong mạch.
·
Sự co mạch bạch huyết. Ở nhiều bộ phận của
cơ thể, mạch bạch huyết bơm bạch huyết đi. Các van một chiều chia các mạch bạch
huyết ra thành các hốc, hoạt động như "các quả tim sơ khai". Bạch
huyết di chuyển vào hốc, các cơ trơn ở thành hốc co, và bạch huyết chảy đến hốc
kế tiếp. Một số tế bào cơ trơn ở thành mạch bạch huyết là các tế bào tạo nhịp.
Các tế bào tạo nhịp tự động khử cực, gây
sự co cơ theo chu kỳ của các mạch bạch huyết.
·
Sự co của cơ xương. Khi tế bào cơ xung
quanh co, mạch bạch huyết bị đè ép, làm cho bạch huyết chuyển động.
·
Các thay đổi áp lực lồng ngực. Trong quá trình hít vào, áp lực ở
khoang lồng ngực giảm, các mạch bạch huyết mở rộng và bạch huyết chảy vào đó.
Khi thở ra, áp lực khoang lồng ngực tăng, mạch bạch huyết bị đè ép, làm bạch
huyết chảy đi.
Cấu tạo [sửa | sửa mã nguồn]
Hệ bạch huyết bao gồm các cơ quan lympho
(cơ quan dạng bạch huyết), một hệ mạch bạch huyết và các bạch huyết luân
chuyển.
Cơ
quan lympho[sửa | sửa mã nguồn]
Cơ quan, mô lympho chia làm hai loại trung
ương và ngoại vi có cấu trúc và chức năng khác nhau trong hệ thống miễn dịch.
Cơ
quan lympho trung ương[sửa | sửa
mã nguồn]
Cơ quan lympho trung ương còn gọi là cơ
quan lympho gốc, nơi sản sinh ra các tế bào gốc (stem cells), nơi huấn luyện
biệt hóa các tế bào gốc thành các tế bào chín. Sự trưởng thành, biệt hóa của
các tế bào gốc ở các cơ quan lympho trung ương không cần sự có mặt của kháng
nguyên.
Tuyến ức: Bài chi tiết: Tuyến ức
Tuyến ức được tạo nên bởi các tế bào dạng
lympho và các tế bào dạng biểu mô. Tuyến ức không tham gia trực tiếp vào quá
trình đáp ứng miễn dịch, nhưng đã tạo ra một vi môi trường tối cần thiết cho sự
phân chia, biệt hóa của dòng lympho bào T. Tuyến ức đảm nhận chức năng huấn
luyện, phân chia, biệt hóa các lympho bào dòng T nhờ các yếu tố hòa tan do các
tế bào biểu mô tuyến tiết ra gọi chung là thymulin, thymosin…Tại đây các tiền
thân của dòng lympho T được đổi mới các dấu ấn bề mặt, sau đó đổ vào máu và đi
tới các mô lympho ngoại vi.[1]
Mỗi tiểu thùy của tuyến ức được chia làm
hai vùng: vùng vỏ và vùng tủy
·
Tại vùng vỏ, các tiền thymo bào chuyển
thành thymo bào chưa chín và đi vào vùng tủy.
·
Vùng tủy là nơi trưởng thành của các thymo
bào chưa chín thành các lympho bào T chín và rời tuyến đi vào máu.
Tủy xương: Bài chi tiết: Tủy xương
Tủy xương không phải là cơ quan dạng lympho
nhưng là nơi sản sinh các tế bào gốc đa năng, tiền thân của các tế bào có thẩm
quyền miễn dịch và các tế bào máu khác.
Bursa Fabricius (Túi Fabricius)
Túi chỉ có ở loài chim, là một cơ quan
lympho biểu mô nằm ở gần ổ nhớp, chứa các nang lympho và cũng được chia thành
vùng vỏ và vùng tủy. Khi gà bị phá hủy túi Fabricius thì lượng globulin miễn
dịch (Ig) trong máu giảm, không có tương bào, dẫn đến giảm đáp ứng miễn dịch
dịch thể.
Cơ
quan lympho ngoại vi[sửa | sửa
mã nguồn]
Là nơi trú ngụ và tập trung chủ yếu của các
lympho bào, sau đó là đại thực bào. Kháng nguyên được tập trung ở đây kích
thích các tế bào phân chia, biệt hóa thành các tế bào hiệu lực để xử lý loại
trừ kháng nguyên.
Bạch huyết
Bạch huyết là dịch trong suốt bao
bọc các mô của cơ thể, giữ cân bằng chất lỏng, và loại bỏ vi khuẩn khỏi các mô.
Bạch huyết thâm nhập hệ tuần hoàn qua các mạch bạch huyết.
Bạch huyết được vận chuyển từ các mô tới
tĩnh mạch qua hệ thống mạch bạch huyết. Trong hệ thống đó, bạch huyết được lọc
qua các cơ quan như lá lách, tuyến ức (thymus) và các hạch bạch huyết. Ở
động vật có vú, bạch huyết được đẩy qua các mạch bạch huyết chủ yếu bởi hiệu
ứng vận động của các cơ xung quanh mạch.
Thành phần chủ yếu của bạch huyết là các bạch
huyết bào (lymphocyte) và đại thực bào (macrophage).
Hệ miễn dịch sử dụng các tế bào này để chống lại sự thâm nhập của các vi sinh
vật ngoại lai. Tất cả các động vật đa bào đều phân biệt giữa các tế bào của
chính mình và các vi sinh vật ngoại lai, chúng cố gắng trung hòa hoặc ăn các vi
sinh vật ngoại lai. Các đại thực bào là các tế bào có
nhiệm vụ bao vây và ăn sinh vật ngoại lai. Còn bạch huyết bào là các tế
bào bạch cầu có nhiệm vụ trung hòa các vi sinh vật
ngoại lai bằng hóa học.
Mạch bạch huyết
Các mạch bạch huyết là thiết yếu cho việc
duy trì cân bằng thể dịch. Các mạch này là các ống nhỏ, bít một đầu gọi là các
mao mạch bạch huyết. Các thể dịch có khuynh hướng chảy ra khỏi các mao mạch máu
đổ vào các khoang mô. Dịch dôi ra đi qua các khoang mô và vào các mao mạch bạch
huyết để trở thành bạch huyết. Các mao mạch bạch huyết có ở hầu khắp các mô
trong cơ thể. Ngoại trừ ở thần kinh trung ương, tủy xương và các mô không có
tưới máu, như sụn, biểu bì và giác mạc. Một nhóm mao mạch bạch huyết nông nằm ở
phần dưới da và hạ bì. Một nhóm mao mạch bạch huyết sâu dẫn lưu cho các cơ,
khớp, phủ tạng và các cấu trúc nằm trong sâu.
Các mao mạch bạch huyết khác với các mao
mạch máu ở chỗ chúng không có lớp màng nền và các tế bào biểu mô đơn giản có
hình vảy hơi chồng lên nhau và tế bào này đính vào tế bào kia một cách lỏng
lẻo. Theo cấu trúc này thì có hai điều xảy ra. Thứ nhất, mao mạch bạch huyết có
tính thấm hơn rất nhiều so với mao mạch máu, và không có cái gì ở dịch kẽ lại
không có ở các mao mạch bạch huyết. Thứ hai, biểu mô ở mao mạch bạch huyết hoạt
động như một loạt van mở theo một hướng cho phép thể dịch vào được mao mạch
bạch huyết mà không cho trôi ngược trở ra khoang dịch kẽ.
Hạch bạch huyết
Các hạch bạch huyết nhỏ, tròn, cấu trúc
hình hạt đậu, kích cỡ đa dạng dài từ 1-25mm. Chúng phân bố dọc theo đường đi
của mạch bạch huyết. Trong hạch có chứa bạch huyết, các vi khuẩn và các chất
thải ra. Thêm vào đó, các tế bào bạch huyết tụ tập, hoạt động và tăng sinh
trong các hạch bạch huyết.
Các hạch bạch huyết được xếp loại từ
nông đến sâu. Các hạch bạch huyết nông nằm ở lớp hạ bì dưới
da, và các hạch bạch huyết sâu ở khắp các nơi khác. Hầu hết các hạch bạch huyết
nông và sâu nằm gần hoặc trên các mạch máu. Có khoảng 450 hạch bạch huyết được
tìm thấy khắp cơ thể.
Các hạch cổ và đầu (khoảng 70 hạch) chứa
bạch huyết từ đầu và cổ, các hạch nách (khoảng 30 hạch) chứa bạch huyết từ chi
trên và ở lớp ngực nông, các hạch ngực (khoảng 100 hạch) chứa bạch huyết từ
thành ngực và các cơ quan, các hạch chậu bụng (khoảng 230 hạch) chứa bạch huyết
từ bụng và chậu, và các hạch bẹn và khoeo (khoảng 20 hạch) chứa bạch huyết từ
các chi dưới và lớp nông ở chậu.
Vòi bạch huyết
Sau khi đi qua các hạch bạch huyết, các
mạch bạch huyết hội tụ lại để tạo thành các mạch lớn hơn gọi là các vòi
bạch huyết, mỗi vòi dẫn lưu cho một phần chủ yếu của cơ thể.
Vòi tĩnh mạch cảnh dẫn lưu cho đầu và
cổ; vòi dưới đòn dẫn lưu cho chi trên, phần nông thành ngực,
và tuyến vú, vòi phế trung thất dẫn lưu cho các cơ quan trong
lồng ngực và sâu trong thành ngực; vòi ruột dẫn lưu cho các cơ
quan trong bụng, như ruột non, dạ dày, tuyến tụy, lá lách và gan; và vòi
thắt lưng dẫn lưu cho chi dưới, chậu và thành bụng, các cơ quan
trong chậu, buồng trứng, tinh hoàn, thận và tuyến thượng thận.
Mô bạch huyết
Mô
bạch huyết có những sợi collagen rất tinh tế, gọi là các sợi lưới,
do các tế bào lưới sinh ra. Các tế bào bạch huyết và các tế
bào khác đính vào các sợi này. Khi bạch huyết hoặc máu đổ vào các cơ quan bạch
huyết, các mạng sợi này bẫy lưới các vi thể và các hạt khác nằm trong dịch.
Mô bạch huyết khuếch tán gồm các tế bào bạch
huyết rải rác, các đại thực bào và các tế bào khác; nó không có ranh giới rõ
ràng; và hòa trộn với các mô xung quanh. Nó nằm sâu trong lớp màng nhầy, quanh
các hạt bạch huyết, và nằm trong hạch bạch huyết và lá lách.
Hạt bạch huyết
Các hạt bạch huyết là các
tập hợp dày đặc hơn các mô bạch huyết được sắp xếp vào các cấu trúc cô đặc như
hình cầu, kích cỡ đường kính từ vài trăm micrô mét đến vài millimet hay hơn.
Các hạt bạch huyết có nhiều mô liên kết lỏng của hệ tiêu hóa, hô hấp, tiết niệu
và sinh dục.
Mảng Peyer là sự kết tập của
các hạt bạch huyết thấy được trong nửa đầu xa của ruột non và ruột thừa. Các
hạt bạch huyết cũng thấy được ở trong hạch bạch huyết và lá lách, nơi chúng
thường được gọi là các nang bạch huyết.
Hạch họng
Hạch họng là các nhóm hạt
bạch huyết lớn và mô bạch huyết khuếch tán nằm sâu trong màng nhầy phía trong
hầu họng.
Hạch họng cho sự bảo vệ chống lại vi khuẩn
và các chất có thể gây hại đi vào hầu từ xoang mũi hay miệng. Ở người lớn, hạch
họng nhỏ đi và cuối cùng có thể biến mất.
Có ba nhóm hạch họng, nhưng các hạch
vòm miệng luôn được gọi là ‘hạch họng’. Hạch này khá lớn, là hai
khối bạch huyết hình bầu dục ở hai bên chỗ ngã ba giữa khoang miệng và
hầu. Hạch hầu, là một tập hợp gần giống như sự kết tập của các
hạt bạch huyết gần ngã ba giữa xoang mũi và hầu. Khi hạch hầu to ra, thường bị
liên hệ đến bệnh V.A (adenoid hoặc adenoids). Hạch
hầu sưng to có thể cản trở việc thở bình thường. Hạch hạnh nhân
lưỡi là một tập hợp lỏng lẻo các hạt bạch huyết ở bề mặt sau của lưỡi.
Đôi khi hạch vòm miệng và hạch hầu bị viêm
mãn tính và phải được nạo đi. Hạch hạnh nhân lưỡi ít bị viêm hơn các hạch khác
và khó nạo bỏ được hơn.
Lá lách: Bài chi tiết: Lá lách
Lá lách, kích cỡ chừng một nắm tay, nằm ở
cực trên bên trái ổ bụng [1]. Trọng lượng trung bình lá lách của người
trưởng thành là 180g ở nam và 140g ở nữ. Kích cỡ và trọng lượng của lá lách có
khuynh hướng giảm ở người già, nhưng ở các bệnh nào đó, lá lách có thể đạt tới
trọng lượng là 2000g hoặc hơn.
Lá lách tiêu hủy các tế bào máu đỏ có khiếm
khuyết, phát hiện và phản ứng với các dị vật trong máu, và hoạt động như một
nguồn trữ máu. Khi các tế bào máu già cỗi, không thể uốn và cuộn được nữa thì
các tế bào này có thể rách ra khi đi chầm chậm qua mặt sàng các dây lá lách.
Các đại thực bào sau đó ăn các mảnh vỡ tế bào. Các dị vật trong máu đi qua lá
lách có thể kích thích một phản ứng miễn dịch vì có các tế bào bạch huyết đã
biệt hóa có mặt trong tủy trắng.
Hệ thống miễn dịch da
Da có chứa một hệ thống miễn dịch được
chuyên môn hoá bao gồm tế bào lymphô và tế bào trình diện kháng nguyên.
Da là cơ quan rộng nhất trong cơ thể tạo nên hàng rào vật lý quan trọng nhất
ngăn cách cơ thể với vi sinh vật và các vật lạ của môi trường bên ngoài. Da còn
là một bộ phận tích cực của hệ thống bảo vệ cơ thể có khả năng tạo ra phản ứng
viêm và đáp ứng miễn dịch tại chỗ. Nhiều kháng nguyên lạ đã đi vào cơ thể qua
đường da, do đó da cũng là nơi khởi động nhiều đáp ứng miễn dịch toàn thân
khác.
Quần thể tế bào chính trong lớp biểu
mô là tế bào sừng (keratinocyte), tế bào hắc tố (melanocyte), tế bào
Langerhans biểu mô và tế bào T trong biểu mô (intraepithelial T cell). Tế bào
sừng và tế bào hắc tố hình như không có vai trò quan trọng trong miễn dịch thu
được, mặc dù tế bào sừng có thể sản xuất nhiều cytokin đóng góp cho phản ứng
miễn dịch bẩm sinh và phản ứng viêm ở da. Tế bào Langerhanx nằm ở phía trên lớp
màng căn bản của biểu mô, đây là những tế bào hình sao chưa trưởng thành của hệ
thống miễn dịch da.
Tế bào Langerhans tạo nên một mạng lưới gần
như liên tục cho phép bắt giữ hầu như toàn bộ những kháng nguyên nào xâm nhập
vào cơ thể qua da. Khi bị kích thích bởi các cytokin tiền viêm, tế bào
Langerhans sẽ co các sợi tua của mình lại, mất tính kết dính với tế bào biểu mô
và di chuyển vào lớp bì. Sau đó chúng theo đường bạch mạch trở về nhà của chúng
là các hạch bạch huyết, quá trình này được kích thích bởi các
chemokin chỉ tác động đặc hiệu lên tế bào Langerhans.
Hệ thống miễn dịch niêm mạc
Trong lớp niêm mạc của hệ tiêu hoá và hô
hấp có tụ tập của nhiều tế bào lymphô và và tế bào trình diện kháng nguyên có
vai trò khởi động đáp ứng miễn dịch đối với kháng nguyên đường tiêu hoá (ăn
vào) và hô hấp (hít vào). Cũng giống như da, lớp biểu mô niêm mạc là hàng
rào quan trọng ngăn cản sự xâm nhập của vi sinh vật.
Những hiểu biết của chúng ta về miễn dịch
niêm mạc dựa chủ yếu vào những nghiên cứu ở đường tiêu hoá, còn những hiểu biết
về miễn dịch niêm mạc hô hấp thì rất ít mặc dù đây cũng là đường xâm nhập rất
thường xuyên của vi sinh vật. Tuy nhiên, hình như các khía cạnh của đáp ứng
miễn dịch giống nhau ở cả hai mô lymphô niêm mạc này.
Lâm sàng [sửa | sửa mã nguồn]
Việc nghiên cứu dẫn lưu bạch huyết của cơ
quan khác nhau là rất quan trọng trong chẩn đoán, tiên lượng và điều trị ung
thư. Hệ thống bạch huyết, vì sự gắn liền của nó với nhiều mô của cơ thể, chịu
trách nhiệm thực hiện các tế bào ung thư giữa các bộ phận khác nhau của cơ thể trong
một quá trình được gọi là di căn. Các hạch bạch huyết can thiệp có thể bắt tiêu
diệt các tế bào ung thư. Nếu việc thất bại trong việc tiêu diệt các tế bào ung thư hạch có thể trở thành các
khối u thứ cấp.
Hạch
to [sửa | sửa mã nguồn]
Hạch to dùng để chỉ một hoặc mở rộng nhiều
hạch bạch huyết. Một, nhiều hạch hạch to nói chung có vai trò phản ứng để đáp
ứng với nhiễm trùng hoặc viêm. Nó gọi là hạch địa phương. Khi nhiều hạch bạch
huyết ở vùng khác nhau của cơ thể có liên quan, điều này được gọi là hạch tổng
quát. Hạch Generalised có thể được gây ra bởi nhiễm trùng như nhiễm bạch cầu
đơn nhân, bệnh lao và HIV,
bệnh mô liên kết như SLE và viêm khớp dạng thấp, và các bệnh ung thư, bao gồm
cả ung thư của mô trong các hạch bạch huyết, thảo luận dưới đây, và di căn của
tế bào ung thư từ các bộ phận khác của cơ thể, mà đã đến thông qua hệ thống
bạch huyết.
Phù bạch huyết: Bài chi tiết: Phù
bạch huyết
Phù bạch huyết là sưng gây ra bởi sự tích
tụ của bạch huyết, xảy ra khi hệ thống bạch huyết tổn thương hoặc có dị tật. Nó
thường ảnh hưởng đến chân tay; khuôn mặt, cổ và bụng cũng có thể bị ảnh hưởng.
Nặng hơn có các biều hiện như chân voi, phù nề tiến triển tới mức độ mà da trở
nên dày với sự xuất hiện tương tự như da voi chi.
Nguyên nhân chưa được biết ở hầu hết các
trường hợp, nhưng thường trước đây có dấu hiệu nhiễm trùng nặng, thường được
gây ra bởi một bệnh ký sinh trùng, chẳng hạn như bệnh giun chỉ[
bạch huyết.
Lymphangiomatosis là một căn bệnh liên quan
đến nhiều u nang hoặc các tổn thương hình thành từ các mạch bạch huyết.
Phù bạch huyết cũng có thể xảy ra sau khi
phẫu thuật cắt bỏ ung thư hạch bạch huyết ở nách (gây ra các cánh tay sưng lên
do dẫn lưu bạch huyết kém) hoặc háng (gây sưng chân). Điều trị bằng xoa bóp, và
không phải là vĩnh viễn.
Vỡ
lách [sửa | sửa mã nguồn]
Mặc dù lá lách được các xương sườn bảo vệ,
nó thường bị vỡ trong những chấn thương do sang chấn ở ổ bụng. Lá lách bị vỡ có
thể gây chảy máu nghiêm trọng, sốc và tử vong. Can thiệp bằng phẫu thuật có thể
cầm máu. may và các thuốc chống đông máu. Mắt lưới quấn quanh lách có thể giữ
nó liền nhau. Phẫu thuật cắt bỏ lách có thể cần nếu các kỹ thuật khác không cầm
được máu. Các cơ quan bạch huyết khác và gan phải bù đắp lại cho việc mất các
chức năng của lách.
Ung
thư bạch huyết [sửa | sửa mã
nguồn]
Ung thư hệ bạch huyết có thể là chính hay
phụ. Lymphoma là dạng ung thư phát sinh từ mô bạch huyết. Bệnh bạch cầu lympho
và tế bào bạch huyết hiện nay được coi là khối u của cùng loại của các dòng tế
bào. Họ được gọi là "bệnh bạch cầu" khi trong máu hoặc tủy và
"lymphoma" khi trong mô bạch huyết. Chúng được nhóm lại với nhau dưới
cái tên "ác tính bạch huyết".
Lymphoma thường được coi như một trong hai
Hodgkin lymphoma hoặc non-Hodgkin lymphoma. Hodgkin lymphoma được đặc trưng bởi
một loại tế bào, gọi là tế bào Reed-Sternberg, nhìn thấy dưới kính hiển vi. Nó
được kết hợp với nhiễm trùng trong quá khứ với các virus Epstein-Barr, và
thường gây ra đau "cao su" hạch to. Nó được tổ chức, sử dụng Ann
Arbor dàn dựng. Hóa trị thường liên quan đến các ABVD và cũng có thể tham gia
xạ trị. Non-Hodgkin lymphoma là một bệnh ung thư đặc trưng bởi sự gia tăng phổ
biến của tế bào B hoặc tế bào T, thường xảy ra trong một nhóm tuổi lớn hơn hơn
Hodgkin lymphoma. Nó được xử lý theo cho dù đó là cao cấp hay cấp thấp, và mang
một tiên lượng kém hơn so với Hodgkin lymphoma.
Lymphangiosarcoma là một ác tính của khối u
mô mềm, trong khi lymphangioma là một khối u lành tính xảy ra thường xuyên kết
hợp với hội chứng Turner. Lymphangioleiomyomatosis là một khối u lành tính của
các cơ trơn của các mạch bạch huyết xảy ra trong phổi.
Lịch sử [sửa | sửa mã nguồn]
Hippocrates, trong thế kỷ thứ 5 trước Công
nguyên, là một trong những người đầu tiên đề cập đến hệ thống bạch huyết. Trong
công việc của mình trên mối nối, ông giới thiệu vắn tắt các hạch bạch huyết
trong một câu. Rufus của Ephesus, một bác sĩ La Mã, xác định các nách, hạch bẹn
và mạc treo các nút cũng như tuyến ức trong ngày 1 đến thế kỷ thứ 2. Việc đề
cập đến đầu tiên của các mạch bạch huyết là vào thế kỷ thứ 3 trước Công nguyên
bởi Herophilos, một nhà giải phẫu học Hy Lạp sống ở Alexandria, người kết luận
không chính xác rằng "tĩnh mạch hấp thụ của hệ bạch huyết", ý nói các
lacteals (các mạch bạch huyết của ruột), để ráo nước vào tĩnh mạch cửa gan, và
do đó vào gan. Những phát hiện của Ruphus và Herophilos được tiếp tục nhân
giống bằng các bác sĩ Hy Lạp Galen, người đã mô tả lacteals và các hạch bạch
huyết mạc treo mà ông quan sát thấy trong bóc tách mình của loài khỉ và lợn ở
thế kỷ thứ 2.
Vào giữa thế kỷ 16, Gabriele Falloppio
(người khám phá ra các ống dẫn trứng), mô tả những điều mà nay được gọi là
lacteals là "chảy trong ruột đầy đủ các chất màu vàng." Trong khoảng
1563 Bartolomeo Eustachi, một giáo sư giải phẫu, mô tả ống ngực ở ngựa là vena
alba thoracis. Các bước đột phá tiếp theo đến khi năm 1622 là một bác sĩ,
Gaspare Aselli, xác định các mạch bạch huyết của ruột ở chó và gọi chúng -tĩnh
alba et lacteae, mà bây giờ được gọi là chỉ đơn giản là lacteals. Các lacteals
được gọi là loại thứ tư của tàu (ba người kia là động mạch, tĩnh mạch và thần
kinh, sau đó được cho là một loại tàu), và bác bỏ khẳng định của Galen rằng
dưỡng trấp được tiến hành bởi các tĩnh mạch. Tuy nhiên, ông vẫn tin rằng
lacteals mang dưỡng trấp đến gan (như được dạy bởi Galen). Ông cũng xác định
ống ngực nhưng không thấy kết nối của nó với các lacteals. Kết nối này được
thành lập bởi Jean Pecquet trong năm 1651, những người tìm thấy một chất dịch
màu trắng trộn với máu trong trái tim của một con chó. Ông nghi ngờ rằng chất
lỏng là dưỡng trấp như dòng chảy của nó tăng lên khi áp lực ổ bụng đã được áp
dụng. Ông bắt nguồn từ chất lỏng này để ống ngực, sau đó ông theo một túi chứa
đầy dưỡng trấp ông gọi là receptaculum chyli, mà bây giờ được gọi là chyli
cisternae; điều tra thêm đã dẫn ông để thấy rằng nội dung lacteals 'nhập hệ
thống tĩnh mạch qua ống ngực. Như vậy, nó đã được chứng minh một cách thuyết
phục rằng lacteals không chấm dứt trong gan, do đó bác bỏ ý tưởng thứ hai của
Galen: đó là dưỡng trấp chảy đến gan. Johann Veslingius đã vẽ những bản phác
thảo đầu tiên của lacteals ở người trong 1647.
Ý tưởng cho rằng máu recirculates qua cơ
thể chứ không phải được sản xuất lần nữa bởi gan và tim lần đầu tiên được chấp
nhận như là một kết quả của các tác phẩm của William Harvey việc -a ông xuất
bản năm 1628 Năm 1652, Olaus Rudbeck (1630-1702), một Thụy Điển, phát hiện một
số tàu suốt trong gan có chứa chất lỏng rõ ràng (và không phải màu trắng), và
do đó đặt tên cho họ tàu hepatico chứa nước. Ông cũng được biết họ đổ vào ống
ngực, và rằng họ đã van. Ông đã công bố phát hiện của mình trong tòa án của Nữ
hoàng Christina của Thụy Điển, nhưng không công bố phát hiện của mình trong một
năm, và trong thời kết quả tương tự được xuất bản bởi Thomas Bartholin, người
đã xuất bản thêm rằng tàu đó có mặt ở khắp mọi nơi trong cơ thể, không chỉ
trong gan. Ông cũng là một trong những đã được đặt tên chúng là "các mạch
bạch huyết." Điều này đã dẫn đến một cuộc tranh cãi gay gắt giữa một trong
những học sinh Bartholin, Martin Bogdan, và Rudbeck, người mà ông bị cáo buộc
đạo văn.
Ý tưởng của Galen chiếm ưu thế trong y học
cho đến thế kỷ thứ 17. Người ta tin rằng máu đã được sản xuất bởi gan từ dưỡng
trấp nhiễm bệnh của ruột và dạ dày, để đó các linh hồn khác nhau đã được bổ
sung bởi các cơ quan khác, và rằng máu này đã được tiêu thụ bởi tất cả các cơ
quan của cơ thể. Lý thuyết này yêu cầu rằng máu được tiêu thụ và sản xuất nhiều
lần hơn. Ngay cả trong thế kỷ 17, những ý tưởng của mình được bảo vệ bởi một số
bác sĩ.
Hệ miễn dịch được chia thành hai nhánh chính: miễn dịch bẩm sinh (innate immune system) và miễn dịch thích-ứng (hay tập nhiễm) với chức năng chính là bảo vệ chúng ta khỏi các vi sinh vật có hại, loại bỏ độc tố và tiêu diệt tế bào khối u. Về cấu trúc, hệ miễn dịch bao gồm các cơ quan miễn dịch là tủy sống và tuyến ức, lá lách và các cơ quan lympho như hạch và các mô bạch huyết, các tế bào miễn dịch và các phân tử đặc hiệu cùng nhau hoạt động để tạo ra đáp-ứng miễn-dịch. https://www.youtube.com/watch?v=ABKgAVeTVao
Tham khảo: Bách khoa toàn thư mở Wikipedia https://vi.wikipedia.org/wiki/H%E1%BB%87_mi%E1%BB%85n_d%E1%BB%8Bch
Các mầm bệnh có thể nhanh chóng tiến hóa và thích nghi, và do đó có thể
tránh bị phát hiện và không bị vô hiệu hoá bởi hệ thống miễn dịch; tuy nhiên,
nhiều cơ chế phòng thủ cũng đã tiến hóa để nhận diện và trung hòa mầm bệnh.
Ngay cả các sinh vật đơn bào đơn
giản như vi khuẩn cũng có
hệ thống miễn dịch thô sơ dưới dạng các enzym bảo
vệ (ở đây là enzym giới hạn)
để chống lại các bệnh do thể thực khuẩn. Một số cơ chế
miễn dịch cơ bản khác đã phát triển trong các loài sinh vật nhân chuẩn cổ
đại và vẫn còn trong hậu duệ hiện đại của chúng, như ở thực vật và động vật không
xương sống. Các cơ chế này bao gồm thực bào, các peptide kháng khuẩn được gọi là defensin,
và hệ thống bổ thể. Các động vật có quai hàm,
bao gồm cả con người, còn có cơ chế
phòng vệ tinh vi hơn,[1] bao gồm khả năng
thích ứng theo thời gian để nhận ra các mầm bệnh cụ thể hiệu quả hơn. Miễn dịch thích ứng (hoặc
miễn dịch thu được) hình thành trí nhớ miễn dịch sau
lần gặp ban đầu đối với một mầm bệnh cụ thể, dẫn đến đáp ứng tăng cường cho các
lần chạm trán sau này với cùng mầm bệnh đó. Quá trình miễn dịch thu được này là
cơ sở tiêm chủng.
Rối loạn hệ thống miễn dịch có thể dẫn
đến bệnh tự miễn, bệnh viêm và ung thư.[2] Suy giảm miễn dịch là
khi hệ miễn dịch ít hoạt động hơn bình thường, dẫn đến các bệnh nhiễm trùng tái
phát và đe dọa đến mạng sống. Ở người, suy giảm miễn dịch có
thể là kết quả của một căn bệnh di truyền như suy giảm miễn dịch kết hợp cấp,
các bệnh liên quan đến HIV/AIDS, hoặc sử dụng
thuốc ức chế miễn dịch. Ngược lại, bệnh tự miễn là
kết quả khi hệ thống miễn dịch hoạt động quá mức nên tấn công chính các mô bình
thường như thể là sinh vật ngoại lai. Các bệnh tự miễn thường gặp bao gồm viêm tuyến giáp Hashimoto, viêm khớp dạng thấp, bệnh đái tháo đường type 1, và lupus ban đỏ hệ thống. Miễn dịch học là
môn học nghiên cứu của tất cả các khía cạnh của hệ thống miễn dịch.
Lịch sử miễn dịch học[sửa | sửa mã
nguồn]
Miễn dịch học là
một ngành khoa học tìm hiểu thành phần và chức năng của hệ miễn dịch. Môn học
này xuất phát từ những nghiên cứu y dược ban đầu về nguyên nhân gây miễn nhiễm
đối với bệnh tật. Miễn dịch được đề cập đến sớm nhất là trong trận đại dịch ở Athens năm 430 TCN. Nhà y học Thucydides đã để ý rằng: những người đã
hồi phục từ một đợt bệnh trước đó có thể giám sát người đang bệnh mà không bị
bệnh lại lần thứ hai.[3] Vào thế kỷ 18, Pierre-Louis Moreau de Maupertuis thực
hiện thí nghiệm với nọc độc bọ cạp và quan sát thấy rằng một số con chó và
chuột đã được miễn nhiễm với nọc độc này.[4] Quan sát này và các
quan sát khác về khả năng miễn dịch đã được Louis Pasteur khai thác trong quá trình
tiêm vaccine và đề
xuất lý thuyết mầm bệnh vi sinh.[5] Lý thuyết của
Pasteur đã trực tiếp phản đối các học thuyết đương thời về bệnh tật, chẳng hạn
như học
thuyết miasma-nói rằng bệnh tật gây ra do "hắc khí". Chỉ
đến năm 1891, với những bằng chứng được đưa ra bởi Robert Koch (được trao giải Nobel năm
1905) các vi sinh vật đã
được khẳng định chính là nguyên nhân gây bệnh truyền nhiễm.[6] Virus đã
được xác định cũng là mầm bệnh cho con người vào năm 1901, khi Walter
Reed phát hiện ra virus
sốt vàng.[7]
Miễn dịch học đã có một bước tiến lớn vào
cuối thế kỷ 19 đó là nhờ sự phát triển nhanh chóng trong nghiên cứu về miễn
dịch thể dịch và miễn
dịch tế bào.[8] Đặc biệt quan trọng
là công trình của Paul Ehrlich, người
đã đề xuất lý thuyết chuỗi phụ phân tử (side-chain)
để giải thích tính đặc hiệu của phản ứng kháng nguyên-kháng thể; những đóng góp
của ông cho sự hiểu biết về miễn dịch thể dịch đã được ghi nhận bởi giải thưởng Nobel năm 1908, cùng với
người đề xuất miễn dịch qua trung gian tế bào, Elie Metchnikoff.[9]
Các lớp bảo vệ[sửa | sửa mã nguồn]
Hệ miễn dịch bảo vệ các sinh vật khỏi bị
nhiễm trùng với các lớp phòng thủ ngày càng đặc hiệu. Nói một cách đơn giản,
các hàng rào vật lý ngăn ngừa các mầm bệnh như vi khuẩn và virus xâm
nhập vào cơ thể. Nếu một mầm bệnh vượt qua hàng rào này, hệ
thống miễn dịch bẩm sinh sẽ tạo đáp ứng tức thời, nhưng không
đặc hiệu. Hệ miễn dịch bẩm sinh được tìm thấy ở tất cả các loài thực vật và
động vật.[10] Nếu các mầm bệnh
thoát được miễn dịch bẩm sinh, thì động vật có xương
sống còn có lớp bảo vệ thứ hai là hệ thống miễn dịch thu được, được kích hoạt
bởi hệ miễn dịch bẩm sinh. Lúc này, hệ thống miễn dịch sẽ thích ứng các đáp ứng
của nó trong suốt thời gian nhiễm trùng để cải thiện khả năng nhận diện mầm
bệnh. Sự đáp ứng được cải thiện này sẽ được giữ lại cả sau khi mầm bệnh đã được
loại bỏ, dưới dạng trí nhớ miễn dịch, và cho phép hệ miễn dịch thu được phát
động các cuộc tấn công nhanh và mạnh mẽ hơn nếu gặp lại mầm bệnh này.[11][12]
So
sánh hệ miễn dịch bẩm sinh và thu được[sửa | sửa mã nguồn]
Hệ miễn dịch bẩm sinh (Innate Immune System - IIS) |
Hệ miễn dịch thu được (Adaptive Immune System - AIS) |
Đáp ứng không đặc hiệu |
Đáp ứng đặc hiệu của kháng nguyên và mầm bệnh |
Đáp ứng khơi mào sẽ nhanh chóng đẩy lên cao trào |
Có thời gian "trễ" giữa đáp ứng khơi mào và cao trào |
Các thành phần trung gian tế bào và thể dịch |
Các thành phần trung gian tế bào và thể dịch |
Không có trí nhớ miễn dịch |
Có trí nhớ miễn dịch |
Tìm thấy ở rất nhiều dạng sinh vật |
Chỉ tìm thấy ở động vật có quai hàm |
Cả miễn dịch bẩm sinh và thu được đều phụ
thuộc vào khả năng của hệ thống miễn dịch để phân biệt giữa các phân tử của bản thân và không
của bản thân. Trong miễn dịch học, các phân tử của bản thân là
những thành phần của cơ thể và có
thể phân biệt với phân tử ngoại lai bởi hệ thống miễn dịch.[13] Ngược lại, các phân
tử không của bản thân là các phân tử ngoại lai. Một loại các
phân tử ngoại lai như thế được gọi là kháng nguyên và được định nghĩa là các
chất gắn với các thụ thể miễn dịch đặc hiệu và kích hoạt đáp ứng miễn dịch.[14]
Miễn dịch bẩm sinh[sửa | sửa mã
nguồn]
Các vi sinh vật hoặc độc tố sau khi xâm nhập
thành công sẽ phải đối mặt với các tế bào và cơ chế của hệ miễn dịch bẩm sinh.
Đáp ứng bẩm sinh thường được kích hoạt khi các vi khuẩn được xác định bởi
các thụ thể nhận
dạng, nhận biết các thành phần được giấu trong các nhóm vi sinh vật[15] hoặc trong một
trường hợp khác là khi các tế bào bị tổn thương, hư hại hoặc stress sẽ
gửi tín hiệu báo động, mà đa số (không phải tất cả) được nhận dạng bởi cùng thụ
thể nhận biết các mầm bệnh.[16] Hệ thống miễn dịch
bẩm sinh thì không đặc hiệu,
có nghĩa là những hệ thống này phản ứng với tất cả mầm bệnh theo một cách giống nhau.[14] Hệ thống này cũng
không tạo ra miễn dịch lâu dài đối với mầm bệnh. Hệ thống miễn dịch bẩm sinh là
hệ thống chủ yếu bảo vệ vật chủ ở hầu hết các sinh vật.[10]
Các
hàng rào bề mặt[sửa | sửa mã
nguồn]
Một số hàng rào bảo vệ sinh vật khỏi
bị nhiễm trùng, bao gồm
các hàng rào cơ học, hóa học và sinh học. Lớp vỏ sáp phủ ngoài ở hầu hết các loại lá, bộ xương ngoài
của côn trùng, vỏ và màng
ngoài của trứng, hoặc da là những ví dụ về các hàng rào cơ học,
chúng là tuyến bảo vệ đầu tiên để phòng ngừa nhiễm trùng.[14] Tuy nhiên, vì các
sinh vật không thể được bao phủ và tách biệt hoàn toàn với môi trường sống,
chúng cũng có các hệ thống khác hoạt động để bảo vệ các phần hở của cơ thể
(như phổi, ruột, và đường sinh dục).
Ở đường phổi, cơ chế ho và hắt hơi tống khứ mầm bệnh và các chất gây khó chịu khác ra
khỏi đường hô hấp. Chảy nước mắt và bài
tiết nước tiểu cũng là cơ chế đẩy các mầm bệnh ra ngoài, trong khi dịch nhầy
tiết ra do đường hô hấp và đường tiêu hóa giúp "bẫy" và ngăn vi sinh vật xâm nhập.[17]
Hàng rào hóa học cũng bảo vệ chống lại
nhiễm trùng. Da và đường hô hấp tiết ra các chất kháng khuẩn như peptide β.[18] Enzyme như lysozyme và phospholipase A2 trong nước bọt, nước mắt và sữa mẹ cũng là các chất
kháng khuẩn.[19][20] Chất
nhầy âm đạo cũng là một hàng rào hóa học cùng với kinh nguyệt, vì chất nhầy hơi acid giúp
hạn chế vi sinh vật. Trong khi đó, tinh dịch có chứa defensin và kẽm để diệt các mầm bệnh.[21][22] Trong dạ dày, acid dạ dày và protease đóng vai trò như bức tường hóa
học mạnh mẽ giúp ngăn các mầm bệnh tiến vào.
Ở đường sinh dục và đường tiêu hóa,
những vi
khuẩn sống hội sinh đóng vai trò như các hàng rào
sinh học bằng cách cạnh tranh với vi khuẩn gây bệnh ở mặt dinh dưỡng và nơi
ở, và trong một số trường hợp là bằng cách thay đổi điều kiện môi trường của
chúng, như pH hoặc sắt tự do[23] Kết quả của mối
quan hệ cộng sinh (hoặc hội sinh) giữa những lợi khuẩn này với hệ
thống miễn dịch là các mầm bệnh sẽ rất khó để đạt đủ số lượng dẫn đến gây bệnh
(do bị cạnh tranh mạnh mẽ). Tuy nhiên, vì hầu hết các kháng sinh không đặc hiệu
nhắm tới vi khuẩn mà không
ảnh hưởng đến nấm, thuốc kháng sinh đường uống có thể dẫn đến sự phát triển quá
mức của nấm và gây ra các bệnh như candida
âm đạo (bệnh do nấm).[24] Có nhiều bằng chứng
cho thấy việc đưa thêm những vi sinh vật probiodic,
ví dụ như dòng thuần của lợi khuẩn Lactobacillus thường thấy
trong sữa chua không
được khử trùng Pasteur,
giúp khôi phục lại sự cân bằng tốt giữa các quần thể vi sinh vật trong nhiễm
khuẩn đường ruột ở trẻ em và cũng là những dữ liệu ban đầu khuyến khích các
nghiên cứu về vi khuẩn viêm vị
trường, bệnh viêm ruột, nhiễm trùng đường
tiểu và nhiễm
trùng hậu phẫu.[25][26][27]
Viêm [sửa | sửa mã nguồn] Xem thêm thông tin: Viêm
Viêm là một trong những đáp ứng đầu tiên của hệ miễn dịch đối với nhiễm trùng.[28] Các triệu chứng viêm điển hình là đỏ, sưng, nóng, và đau, đó là do sự gia tăng lưu lượng máu vào mô. Viêm được biểu hiện bởi các phân tử tín hiệu eicosanoid và các protein nhỏ cytokine, do các tế bào bị thương hoặc nhiễm khuẩn tiết ra. Eicosanoid bao gồm prostaglandin gây ra sốt và sự giãn các mạch máu tạo nên chứng viêm, và leukotriene thu hút một số tế bào máu trắng nhất định (bạch cầu).[29][30] Các cytokine thông thường bao gồm: interleukin chịu trách nhiệm truyền tin giữa các tế bào bạch cầu; chemokine thúc đẩy hướng hóa; và interferon có tác dụng chống virus, chẳng hạn như tắt tổng hợp protein trong tế bào chủ.[31] Các nhân tố sinh trưởng và các yếu tố độc tế bào cũng có thể được giải phóng. Các cytokine này và các hóa chất khác giúp huy động tế bào miễn dịch vào vị trí nhiễm trùng và cũng thúc đẩy việc chữa lành các mô bị tổn thương sau khi loại bỏ các mầm bệnh.[32]
Hệ thống bổ thể [sửa | sửa mã nguồn] Xem thêm thông tin: Bổ thể
Có thể coi hệ thống bổ thể là một "dòng thác" sinh
hóa tấn công bề mặt của các tế bào ngoại lai. Hệ thống này gồm hơn 20 protein
khác nhau và tên gọi "bổ thể" xuất phát từ khả năng "bổ
sung" cho việc tiêu diệt các mầm bệnh bằng kháng thể. Bổ thể là thành phần thể dịch (lưu
hành trong máu) chính của đáp ứng miễn dịch bẩm sinh.[33][34] Hệ thống bổ thể
được tìm thấy ở nhiều loài, bao gồm cả các loài không phải là động vật có vú như thực vật, cá,
và một số động vật không
xương sống.[35]
Ở người, phản ứng bổ thể được kích hoạt
bằng cách gắn kết bổ thể vào các kháng thể đang gắn đặc hiệu với những vi sinh
vật lạ hoặc bổ thể sẽ gắn vào đuôi carbohydrate trên bề mặt mầm bệnh. Tín hiệu nhận biết này gây nên phản
ứng tiêu diệt nhanh chóng.[36] Tốc độ phản ứng
nhanh là kết quả của sự khuếch đại tín hiệu xảy ra do khởi động chuỗi phân tách
tuần tự của các protein bổ thể, còn được gọi là protease (thủy phân protein). Sau khi bổ
thể đầu tiên gắn với vi khuẩn, hoạt tính protease của nó được kích hoạt, từ đó
kích hoạt protease của các bổ thể tiếp theo, và cứ như vậy. Điều này tạo ra một
dòng thác khuếch đại tín hiệu ban đầu bằng điều hòa ngược
dương tính được kiểm soát.[37] Quá trình này cuối
cùng sẽ tạo nên các chuỗi peptide giúp thu hút
các tế bào miễn dịch, tăng tính thấm của mạch máu, và opsonin
hóa mầm bệnh, và đánh dấu chúng để phá hủy. "Dòng
thác" bổ thể cũng có thể giết chết tế bào ngoại lai trực tiếp bằng cách
phá vỡ màng sinh chất của
chúng.[33]
Hàng
rào của tế bào [sửa | sửa mã
nguồn]
Bạch cầu (tế bào máu trắng) hoạt động
giống như các sinh vật đơn bào độc lập và là trợ thủ đắc lực của hệ miễn dịch
bẩm sinh.[14] Các bạch cầu bẩm
sinh bao gồm các tế bào thực bào (gồm đại thực bào, bạch cầu trung tính và
các tế bào nhiều nhánh),
các tế bào lympho bẩm
sinh, các tế bào
phì-dưỡng bào, bạch cầu ưa acid, bạch cầu ưa base,
và các tế bào giết tự nhiên.
Các tế bào này xác định và loại bỏ mầm bệnh bằng cách tấn công các mầm bệnh lớn
hơn qua tiếp xúc, hoặc bằng cách thực bào và sau đó giết chết các vi sinh
vật. Các tế bào bẩm sinh cũng là trung gian quan trọng[38] trong sự phát triển
của cơ quan bạch huyết và kích hoạt hệ thống miễn dịch thu được.[39]
Thực bào là một khía cạnh quan trọng của
miễn dịch bẩm sinh cấp tế bào và được thực hiện bởi các tế bào được gọi là tế
bào thực bào (phagocyte). Các tế bào này sẽ thực bào, hay nói đơn giản
hơn là "nuốt" mầm bệnh hoặc các hạt. Tế bào thực bào thường đi tuần
trong cơ thể tìm kiếm mầm bệnh, nhưng có thể được gọi đến các vị trí cụ thể
bằng các cytokine.[14] Một khi mầm bệnh đã
bị "nuốt" bởi một tế bào thực bào, nó sẽ bị mắc kẹt trong một túi bào
nội bào gọi là phagosome,
sau đó túi này sẽ kết hợp với một túi khác gọi là lysosome để tạo thành một phagolysosome.
Mầm bệnh sau đó bị tiêu diệt bởi hoạt động của các enzyme tiêu
hóa hoặc sau một đợt bùng
nổ hô hấp khi bị phóng thích các gốc tự do có hại vào
trong phagolysosome.[40][41] Thực bào được tiến
hóa như một phương tiện để thu thập các chất dinh dưỡng ("thực"
là ăn), nhưng vai trò này đã được mở rộng trong các tế bào thực bào để có thể
nuốt các mầm bệnh như một cơ chế bảo vệ. Thực bào có thể đại diện cho hình thức
bảo vệ vật chủ lâu đời nhất, vì các tế bào thực bào đã được tìm thấy trên
cả động vật có xương
sống và động vật không
xương sống.[42]
Bạch cầu trung tính và đại thực bào là
những tế bào thực bào chu du khắp cơ thể truy đuổi mầm bệnh xâm nhập.[43] Bạch cầu trung tính
hay thường được tìm thấy trong máu và là dạng phổ biến nhất của tế bào thực
bào, bình thường chiếm từ 50% đến 60% tổng số bạch cầu của dịch tuần hoàn.[44] Trong giai đoạn cấp
tính của viêm, đặc biệt là do nhiễm khuẩn, bạch cầu trung tính sẽ
di chuyển đến chỗ viêm trong một quá trình gọi là hướng hóa, và thường là các
tế bào đầu tiên đến "hiện trường" nhiễm trùng. Các đại thực bào là
các tế bào đa năng nằm trong các mô và sản xuất ra một loạt các chất gồm: enzyme, bổ thể và các cytokine, chúng cũng có thể hoạt động như
những "máy dọn rác" để loại bỏ các tế bào không còn chức năng và các
mảnh tế bào khác, và cả các tế bào đang trình diện kháng nguyên kích hoạt hệ
thống miễn dịch thu được.[45]
Các tế bào tua (hay tế bào nhiều
nhánh, tế bào hình cây) là những tế bào thực bào hay tiếp xúc
với môi trường bên ngoài; do đó chúng nằm chủ yếu ở da, mũi, phổi, dạ dày và ruột.[46] Các tế bào này được
đặt tên theo sự giống nhau của chúng với các tế bào nhiều nhánh trên thần kinh,
vì cả hai đều có nhiều "gai" tua tủa, nhưng các tế bào nhiều nhánh ở
đây tất nhiên là không liên quan gì đến hệ thần kinh. Các
tế bào nhiều nhánh phục vụ như một liên kết giữa các mô
cơ thể và các hệ thống miễn dịch bẩm sinh và thu được, vì chúng
có kháng nguyên đối với tế bào T, một trong những loại tế bào chủ chốt
của hệ miễn dịch thu được.
Các dưỡng bào hay tế bào
phì nằm ở trong mô liên kết và niêm mạc, và điều chỉnh phản ứng viêm.[47] Chúng thường liên
quan đến dị ứng và sốc phản vệ.[44] Bạch cầu ưa kiềm và
bạch cầu ưa acid có liên quan đến bạch cầu trung tính. Chúng tiết ra các chất
trung gian hóa học có liên quan đến việc phòng vệ ký sinh trùng và
đóng một vai trò trong các phản ứng dị ứng, như hen suyễn.[48] Các tế bào giết tự
nhiên là các bạch cầu tấn công và phá hủy tế bào
khối u, hoặc các tế bào đã bị nhiễm virus.[49]
Các
tế bào giết tự nhiên [sửa | sửa
mã nguồn] Xem thêm thông tin: Tế bào NK
Các tế bào giết tự nhiên, còn gọi là các tế
bào NK, là các tế bào lympho trong hệ miễn dịch bẩm sinh. Tế bào NK không trực
tiếp tấn công các vi khuẩn xâm nhập.[50] Thay vào đó, các tế
bào NK tiêu hủy các tế bào chủ bị "hỏng", ví dụ như các tế bào khối u hoặc các tế bào bị nhiễm virus,
NK nhận ra các tế bào như vậy do chúng có một tình trạng gọi là "mất bản
thân." (missing self). Thuật ngữ này mô tả các tế bào với rất ít
dấu chuẩn (thụ thể) bề mặt tế bào gọi là MHC I
(phức hợp phù
hợp mô chính) - tình trạng này có thể phát sinh khi tế bào chủ
nhiễm virus.[35] Tế bào này được đặt
tên là "giết tự nhiên" vì nó không cần được hoạt hóa ban đầu để giết
các tế bào "mất bản thân". Trong rất nhiều năm, ta không rõ các tế
bào NK đã nhận ra tế bào khối u và ung thư như thế nào. Bây giờ người ta biết
rằng "lớp phủ" MHC trên bề mặt của những tế bào này đã bị thay đổi và
các tế bào NK trở nên hoạt hóa thông qua việc nhận ra "mất bản thân".
Các tế bào cơ thể bình thường không được nhận diện và tấn công bởi các tế bào
NK vì chúng thể hiện các kháng nguyên MHC còn nguyên vẹn. Những kháng nguyên
MHC này được nhận diện bởi các thụ thể kháng thể tế bào giết (killer cell
immunoglobulin receptors viết tắt là KIR), nhận diện này
sẽ kìm hãm các tế bào NK khỏi giết chính các tế bào khỏe mạnh.[51]
Miễn dịch thu được [sửa | sửa mã
nguồn]
Hệ miễn dịch thu được (còn
gọi là miễn dịch tập nhiễm) đã phát triển sớm ở động vật có xương
sống và cho phép có một đáp ứng miễn dịch mạnh hơn cũng như có
một trí nhớ miễn dịch, nơi mà mỗi mầm bệnh được "ghi nhớ" bằng một
"dấu ấn" kháng nguyên đặc thù [52]. Đáp ứng miễn dịch thu
được là đặc hiệu với từng kháng nguyên và đòi hỏi sự nhận diện
các kháng nguyên "không của bản thân" cụ thể trong một
quá trình được gọi là trình diện kháng
nguyên. Tính đặc hiệu của kháng nguyên cho phép tạo ra các phản ứng
được điều chỉnh cho từng mầm bệnh cụ thể hoặc các tế bào nhiễm mầm bệnh. Những
phản ứng vô cùng phù hợp này được lưu lại trong cơ thể bằng các tế
bào nhớ. Nếu mầm bệnh lây nhiễm vào cơ thể nhiều lần, những tế bào
nhớ cụ thể này sẽ được sử dụng để nhanh chóng loại bỏ nó.
Các
tế bào lympho[sửa | sửa mã
nguồn]
Các tế bào của hệ miễn dịch thu được là các
loại bạch cầu đặc biệt, gọi là tế bào lympho. Tế
bào B và tế bào T là những loại chính của tế bào lympho và đều được bắt nguồn
từ các tế
bào gốc tạo máu trong tủy xương. Các tế bào
B tham gia vào phản ứng miễn
dịch thể dịch, trong khi các tế bào T tham gia phản ứng miễn dịch qua trung gian tế bào.
Cả hai tế bào B và tế bào T mang các phân
tử thụ thể nhận ra các mục tiêu cụ thể. Các tế bào T nhận diện được một mục
tiêu "không của bản thân", ví dụ như một mầm bệnh, chỉ sau khi
các kháng nguyên (những
mảnh nhỏ của mầm bệnh) được xử lý và trình diện kết hợp với một thụ thể
"của bản thân" gọi là phân tử phức hợp phù hợp
mô chính (MHC). Có hai loại phụ chính của tế bào T: tế bào T độc còn
gọi là T giết và tế bào T hỗ trợ.
Ngoài ra còn có các tế
bào T điều hòa có vai trò trong tinh chỉnh các đáp ứng miễn
dịch. Các tế bào T độc chỉ nhận biết các kháng nguyên kết hợp với các phân tử
MHC lớp I, trong khi các tế bào T hỗ trợ và các tế bào T điều hòa chỉ nhận ra
các kháng nguyên kết hợp với các phân tử MHC lớp II. Hai cơ chế trình diện
kháng nguyên phản ánh các vai trò khác nhau của hai loại tế bào T. Còn có cơ
chế thứ ba, dành cho một phần nhỏ các tế bào T
γδ (đọc là T gamma delta) là nhận diện các kháng nguyên nguyên vẹn mà không cần gắn
với thụ thể MHC.[53] Các tế bào T lưỡng dương tính (double-positive)
biểu hiện nhiều loại kháng nguyên của cơ thể khác nhau trong tuyến ức, và nhân đây cũng nói rằng, iod rất
cần cho sự trưởng thành và hoạt động của tế bào T trong tuyến ức.[54]
Ngược lại, thụ thể đặc hiệu kháng nguyên tế
bào B là một phân tử kháng thể trên bề mặt tế bào B và
nhận biết được mầm bệnh hoàn chỉnh mà không cần phải xử lý và trình diện kháng
nguyên. Mỗi dòng tế bào B biểu hiện một kháng thể khác nhau, do đó, bộ hoàn
chỉnh thụ thể kháng nguyên tế bào B đại diện cho tất cả các
kháng thể mà cơ thể có thể sản xuất.
Tế
bào T độc [sửa | sửa mã nguồn]
Tế bào T độc (hay
T giết) là một nhóm nhỏ các tế bào T tiêu diệt các tế bào bị nhiễm
virus (và các mầm bệnh khác), hoặc tế bào bị hư hỏng hoặc không
còn chức năng.[55] Giống như các tế bào B, mỗi loại tế bào T nhận ra một kháng
nguyên khác nhau. Các tế bào T độc được kích hoạt khi thụ thể tế bào T của
chúng (T-cell receptor viết tắt là TCR) gắn với kháng
nguyên cụ thể trong một phức hợp với thụ thể MHC lớp
I của tế bào khác. Sự nhận diện của MHC này: phức hợp kháng nguyên còn được hỗ
trợ bởi một đồng thụ thể trên tế bào T, được gọi là CD8.
Sau đó, tế bào T di chuyển khắp cơ thể để tìm các tế bào mang các thụ thể MHC I
trình diện kháng nguyên này. Khi một tế bào T được hoạt hóa tiếp xúc với các tế
bào như vậy, nó sẽ phóng ra các chất độc tế bào (cytotoxin),
ví dụ như perforin,
tạo thành các lỗ trên màng tế bào của
các tế bào đích, cho phép các ion, nước và các chất độc tràn vào. Sự xâm
nhập của một độc tố khác gọi là granulysin (một protease) khiến cho tế bào đích phải trải qua
quá trình tự chết theo chương trình.[56] Việc giết tế bào
chủ bởi tế bào T là đặc biệt quan trọng trong việc ngăn ngừa sự nhân lên của
virus. Việc kích hoạt tế bào T được kiểm soát chặt chẽ và thường đòi hỏi một
tín hiệu kích hoạt MHC / kháng nguyên rất mạnh hoặc các tín hiệu kích hoạt bổ
sung được cung cấp bởi các tế bào T hỗ trợ.[56]
Tế
bào T hỗ trợ[sửa | sửa mã nguồn]
Các tế bào T hỗ trợ giúp
điều chỉnh cả đáp ứng miễn dịch bẩm sinh và
thu được và giúp xác định phản ứng miễn dịch nào mà cơ thể tạo ra đối với một
mầm bệnh cụ thể.[57][58] Các tế bào này
không có hoạt động gây độc tế bào và không giết các tế bào bị nhiễm cũng không
tiêu diệt mầm bệnh một cách trực tiếp. Thay vào đó, nó kiểm soát phản ứng miễn
dịch bằng cách "chỉ đạo" các tế bào khác để thực hiện các nhiệm vụ
trên.
Các tế bào T hỗ trợ biểu hiện các thụ
thể tế bào T (TCR) nhận diện kháng nguyên đang gắn với phân
tử MHC lớp II.
Phức hợp MHC-kháng nguyên: cũng được nhận diện bởi đồng thụ thể CD4 của
tế bào hỗ trợ, huy động các các phân tử bên trong tế bào T (ví dụ, Lck-lymphocyte-specific
protein tyrosine kinase), với nhiệm vụ kích hoạt tế bào T. Các tế bào T hỗ
trợ có một tương tác yếu hơn với phức hợp kháng nguyên MHC nếu so sánh với các
tế bào T độc, có nghĩa là: phải nhiều thụ thể (khoảng 200-300) trên tế bào T hỗ
trợ gắn với một MHC-kháng nguyên mới kích hoạt tế bào T hỗ trợ, trong khi các
tế bào T độc có thể được kích hoạt chỉ bằng 1 thụ thể gắn một phân tử MHC-kháng
nguyên duy nhất. Kích hoạt tế bào T hỗ trợ còn đòi hỏi thời gian tương tác dài
hơn với tế bào trình diện kháng nguyên.[59] Việc kích hoạt tế
bào T hỗ trợ làm nó phóng thích các cytokine ảnh hưởng đến hoạt động của
nhiều loại tế bào. Các tín hiệu Cytokine được tạo ra bởi các tế bào T hỗ
trợ làm tăng chức năng diệt vi khuẩn của các đại thực bào và
hoạt động của các tế bào T độc.[14] Ngoài ra, kích hoạt
tế bào T hỗ trợ gây ra sự tăng lên của các phân tử biểu hiện trên bề mặt của tế
bào T, như phối tử
CD40 (còn gọi là CD154),
cung cấp các tín hiệu kích thích đặc biệt để kích hoạt các tế bào B tạo kháng
thể.[60]
Tế
bào T Gamma delta[sửa | sửa mã
nguồn]
Các tế bào T Gamma delta (hay T γδ) có một
thụ thể tế bào T thay thế là đối nghịch so với các tế bào T CD4+ và CD8 + (αβ)
T và chia sẻ các đặc tính của tế bào T hỗ trợ, tế bào T độc T và tế bào NK. Các điều kiện tạo đáp ứng từ các tế
bào T γδ không được hiểu đầy đủ. Giống như một phần nhỏ các tế bào T "khác
thường", T gamma delta mang một số TCR bất biến, chẳng hạn như thụ
thể CD1d ức chế các tế bào giết tự nhiên, các tế bào T γδ nằm ở
ranh giới miễn dịch bẩm sinh và thu được.[61] Một mặt, các tế bào
T γδ là một thành phần của miễn dịch thu được do
chúng sắp xếp lại gen TCR để tạo ra sự đa dạng thụ thể và cũng có thể phát
triển kiểu hình trí nhớ miễn dịch. Mặt khác, một số tập con khác nhau của nó
lại là một phần của hệ thống miễn dịch bẩm sinh, vì các thụ thể ức chế TCR hay
thụ thể NK có thể được sử dụng như các thụ thể nhận dạng khuôn mẫu (Pattern
recognition receptor viết tắt là PRR). Ví dụ, một lượng
lớn các tế bào T Vγ9/Vδ2 người sẽ đáp ứng trong vòng vài giờ với các kháng nguyên không phải peptide được tạo ra bởi các vi khuẩn, và
các tế bào T Vδ1+ bị ức chế rất cao trong đáp ứng biểu mô với tế bào biểu mô bị
stress.[53]
Tế
bào lympho B và kháng thể[sửa | sửa
mã nguồn] Cấu trúc cơ bản của kháng thể: gồm 2 chuỗi nặng và 2
chuỗi nhẹ liên kết bằng cầu disulphide. Vùng tùy biến (màu tím) cho phép kháng
thể gắn đặc hiệu kháng nguyên [62]
Một tế bào B xác định các mầm bệnh khi các kháng thể trên bề mặt của nó liên kết với
một kháng nguyên ngoại
lai đặc hiệu.[63] Phức hệ kháng
nguyên/kháng thể này được lấy bởi tế bào B và được xử lý bằng phân giải protein thành
các peptide. Tế bào B sau đó sẽ trình diện các
peptide kháng nguyên này trên các phân tử MHC lớp II. Phức hợp MHC-kháng nguyên
thu hút một tế bào T hỗ trợ đến kết hợp, giải phóng lymphokine và
hoạt hóa tế bào B.[64] Khi tế bào B được
hoạt hóa, chúng bắt đầu phân chia và tạo ra các tương bào.
Những tương bào này
sẽ sinh ra hàng triệu bản sao của kháng thể nhận diện kháng nguyên này. Những kháng thể này lưu
thông trong huyết tương và bạch huyết, kết hợp
với các mầm bệnh biểu hiện kháng nguyên và đánh dấu chúng để phá hủy bởi bổ thể hoặc cho chúng bị tiêu hủy bởi các
tế bào thực bào. Các kháng thể cũng có thể trung hòa các mầm bệnh trực tiếp
bằng cách liên kết với các độc tố của vi khuẩn hoặc can thiệp vào các thụ thể
mà virus và vi khuẩn sử dụng để gây nhiễm các tế bào.[65]
Các
biến thể hệ miễn dịch thu được[sửa | sửa mã nguồn]
Sự tiến hóa của hệ thống miễn dịch thu được
xảy ra trong tổ tiên của động vật có quai hàm.
Rất nhiều phân tử cơ bản của hệ thống miễn dịch thu được (ví dụ, globulin miễn
dịch và các thụ thể tế bào T) chỉ tồn tại trong động vật có quai hàm.
Tuy nhiên, một phân tử nguồn gốc lympho khác biệt đã được phát hiện trong
"động vật không có quai hàm" nguyên thủy, ví dụ như ở cá mút đá. Những động
vật này có một mảng lớn các phân tử gọi là thụ thể tế bào lympho biến đổi (variable
lymphocyte receptors hay VLR), giống như các thụ thể kháng
nguyên của động vật có quai hàm, được sản xuất từ chỉ một hoặc hai gen. Các
phân tử này được cho là gắn kết các kháng nguyên gây bệnh theo cách tương tự
với các kháng thể và với cùng mức độ đặc hiệu.[66]
Trí
nhớ miễn dịch[sửa | sửa mã
nguồn]
Khi các tế bào B và tế bào T được kích hoạt
và bắt đầu nhân lên, một số tế bào con của chúng sẽ trở thành các tế bào nhớ
tồn tại rất lâu. Trong suốt cuộc đời của một con vật, các tế bào nhớ sẽ
"ghi nhớ" từng mầm bệnh cụ thể gặp phải và có thể khởi động một đáp
ứng mạnh mẽ nếu mầm bệnh được gặp lại. Điều này chính là "thu được"
(trong từ miễn dịch thu được - acquired immunity) bởi vì nó xảy ra
trong suốt cuộc đời của một cá thể, "gặp" và "nhớ" rất
nhiều mầm bệnh gặp phải và chuẩn bị hệ miễn dịch cho những thách thức trong
tương lai. Trí nhớ miễn dịch có thể ở dạng trí nhớ thụ động ngắn hạn hoặc trí
nhớ chủ động dài hạn.
Trí
nhớ thụ động[sửa | sửa mã
nguồn]
Trẻ sơ sinh chưa từng bị nhiễm trước đó
với vi khuẩn nhưng lại
đặc biệt dễ bị phơi
nhiễm. Vì vậy, một số hàng rào bảo vệ thụ động được cung cấp bởi
người mẹ để giúp con tránh nhiễm khuẩn. Trong thời kỳ mang thai, một loại kháng thể đặc biệt, được gọi là IgG,
được vận chuyển từ mẹ sang con trực tiếp qua nhau thai, do đó, đứa trẻ có kháng thể cao ngay cả vừa mới sinh, với
cùng một phổ kháng nguyên đặc
hiệu như mẹ của chúng.[67] Sữa mẹ cũng chứa các kháng thể được
chuyển vào ruột của trẻ sơ sinh và
bảo vệ khỏi nhiễm khuẩn cho đến khi trẻ sơ sinh có thể tổng hợp các kháng thể
riêng của mình.[68] Đây là miễn
dịch thụ động bởi vì thai nhi không thực sự tạo ra bất
kỳ tế bào nhớ hoặc kháng thể nào, chúng chỉ mượn từ mẹ. Sự miễn dịch
thụ động này thường là ngắn hạn, chỉ kéo dài từ vài ngày đến vài tháng. Trong y
học, khả năng miễn dịch thụ động bảo vệ cũng có thể được truyền nhân tạo từ
người này sang người khác qua truyền huyết thanh giàu kháng thể.[69]
Trí
nhớ chủ động và tiêm chủng[sửa | sửa
mã nguồn]
Trí nhớ chủ động dài hạn
thu được sau nhiễm trùng là do hoạt hóa các tế bào B và T, đẫn đến tạo các tế
bào nhớ. Hoạt động miễn dịch cũng có thể được tạo ra một cách nhân tạo, thông
qua tiêm chủng. Tiêm vaccine là đưa kháng nguyên từ mầm bệnh
để kích thích hệ miễn dịch và phát triển miễn dịch đặc hiệu chống
lại mầm bệnh mà không gây ra bệnh liên quan đến mầm bệnh đó, chẳng hạn
tiêm vaccine cúm không làm
ta bị cúm. Sự kích thích nhân tạo này là thành công vì nó khai thác tính đặc
hiệu tự nhiên của hệ thống miễn dịch, cũng như cảm ứng hệ miễn dịch hoạt động
dựa trên những cơ chế của nó. Bệnh truyền nhiễm vẫn
là một trong những nguyên nhân gây tử vong hàng đầu trong quần thể con người,
vì vậy, có thể nói, tiêm vaccine đại diện cho sự điều khiển hệ
thống miễn dịch hiệu quả nhất của mà nhân loại từng phát
triển.[35][70]
Hầu hết các loại vaccine virus dùng
các virus đã bị vô hiệu hóa, trong khi nhiều vaccine vi khuẩn dựa trên thành phần tế bào nhỏ
của vi khuẩn, bao gồm các
thành phần độc hại đã bị vô hiệu hóa.[14] Vì nhiều loại kháng
nguyên có nguồn gốc từ vaccine"'không chứa tế bào" là không
đủ mạnh để gây ra đáp ứng thu được, do vậy hầu hết các vaccine vi khuẩn đều được cung cấp thêm
các chất bổ trợ để kích hoạt tế bào trình diện kháng nguyên của hệ thống miễn
dịch bẩm sinh và tối đa hoá tính
miễn dịch.[71]
Rối loạn miễn dịch ở người[sửa | sửa
mã nguồn]
Hệ miễn dịch là một cấu trúc vô cùng hiệu
quả kết hợp tính đặc hiệu, tính thích ứng và lợi dụng các đặc tính nhằm tăng
tính miễn dịch. Tuy nhiên, hệ thống phòng thủ này vẫn xảy ra những sai hỏng, ta
có thể chia vào ba phạm trù chính: suy giảm miễn dịch, bệnh tự miễn, và
các đáp ứng quá mẫn.
Suy giảm miễn dịch[sửa | sửa mã nguồn] Xem thêm thông tin: Suy giảm miễn dịch
Suy giảm miễn dịch xảy
ra khi một hoặc nhiều thành phần của hệ miễn dịch không hoạt động. Khả năng đáp
ứng của các hệ miễn dịch chống lại mầm bệnh là thấp hơn ở cả người trẻ và người
cao tuổi, và đáp ứng miễn dịch bắt đầu suy giảm từ khoảng 50 tuổi do lão hóa
miễn dịch tự nhiên.[72][73] Ở các nước phát triển, béo phì, nghiện rượu,
và sử dụng ma túy là những
nguyên nhân phổ biến dẫn đến chức năng miễn dịch kém.[73] Tuy nhiên, suy dinh dưỡng lại
là nguyên nhân phổ biến nhất của suy giảm miễn dịch ở các nước đang phát
triển.[73] Thức ăn thiếu chất đạm có
liên quan đến miễn dịch qua trung gian qua tế bào, bổ thể, chức
năng thực bào, nồng độ kháng thể IgA, và sản xuất cytokine. Ngoài ra, sự mất tuyến ức lúc trẻ do đột biến di truyền
hoặc cắt bỏ phẫu thuật cũng dẫn đến suy giảm miễn dịch trầm trọng và dễ bị
nhiễm trùng.[74]
Suy giảm miễn dịch cũng có thể được di
truyền thừa kế (inheritance-phân biệt với genetic).[14] Bệnh
u hạt mãn tính, bệnh mà thực bào giảm khả năng tiêu diệt các mầm
bệnh, là một ví dụ về sự suy giảm miễn dịch do di truyền, hay suy giảm miễn dịch bẩm sinh. AIDS và một số loại ung thư gây ra tình trạng suy giảm miễn
dịch thu được.[75][76]
Bệnh
tự miễn[sửa | sửa mã nguồn] Xem thêm thông tin: Bệnh tự miễn
Đáp ứng miễn dịch quá mức lại là thái cực
còn lại của rối loạn chức năng miễn dịch, đặc biệt là các bệnh tự miễn. Lúc
này, hệ thống miễn dịch không thể phân biệt chính xác giữa "của bản
thân" và "không của bản thân", và tự tấn công một phần của chính
cơ thể. Trong điều kiện bình thường, nhiều tế bào T và kháng thể phản ứng với
các peptide của cơ thể [77]. Một trong những chức
năng của việc biệt hóa các tế bào miễn dịch (ở tuyến ức và tủy xương) là đưa
các lymphocyte non với các kháng nguyên được tạo ra trong cơ thể và sẽ loại bỏ
các tế bào nhận ra các kháng nguyên của chính bản thân, nhằm hạn chế bệnh tự
miễn.
Đáp
ứng quá mẫn[sửa | sửa mã nguồn]
Đáp ứng quá mẫn là một đáp ứng miễn dịch mà gây tổn thương các mô của cơ thể. Chúng được chia thành bốn loại (từ I - IV) dựa trên các cơ chế liên quan và thời gian đáp ứng quá mẫn. Quá mẫn loại I là phản ứng tức thời còn gọi là phản vệ, thường liên quan đến dị ứng. Các triệu chứng có thể từ khó chịu nhẹ cho đến tử vong.
Quá mẫn loại I do trung gian là kháng thể IgE, làm các tế bào phì và bạch cầu trung tính giải phóng hạt khi được liên kết ngang với kháng nguyên.[78]
Quá mẫn loại II xảy ra khi các kháng thể gắn kết với kháng nguyên trên chính tế bào của bệnh nhân, đánh dấu chúng để tiêu hủy. Nó cũng được gọi là quá mẫn phụ thuộc kháng thể (hoặc quá mẫn gây độc tế bào), và do trung gian bởi các kháng thể IgG và IgM.[78]
Quá mẫn loại III: Các phức hợp miễn dịch (lắng kết của các kháng nguyên, các bổ thể, và các kháng thể IgG và IgM) tích tụ trong các mô khác nhau sẽ kích hoạt phản ứng quá mẫn loại III.[78]
Quá
mẫn loại IV (còn gọi là quá mẫn qua trung gian tế bào hoặc hay
quá mẫn đình trệ-delayed type hypersensitivity) thường mất từ hai đến
ba ngày để phát triển. Đáp ứng loại IV có liên quan đến nhiều bệnh tự miễn và
nhiễm trùng nhưng cũng có thể liên quan đến bệnh viêm da tiếp xúc (dị ứng thường xuân).
Những đáp ứng này được trung gian bởi tế bào T, bạch cầu đơn nhân và đại thực bào.[78]
Viêm
tự phát[sửa | sửa mã nguồn]
Viêm là một trong những phản ứng đầu tiên
của hệ miễn dịch đối với nhiễm trùng.[79] Nhưng nó có thể
xuất hiện mà không rõ nguyên nhân.
Viêm được gây ra bởi các eicosanoid và
các cytokine, được các tế bào bị thương hoặc nhiễm
khuẩn phóng thích. Eicosanoid bao gồm prostaglandin gây ra sốt và giãn mạch máu
liên quan đến chứng viêm, và leukotriene thu
hút các bạch cầu nhất định.[80][81] Các cytokine thông
thường bao gồm interleukin có
trách nhiệm truyềnt tin giữa các tế bào bạch cầu; chemokine thúc
đẩy hướng hóa; và interferon có tác
dụng chống virus, chẳng hạn như ngừng tổng hợp protein trong tế bào chủ.[82] Các nhân
tố sinh trưởng và các yếu tố độc tế bào cũng có thể được giải
phóng. Những cytokine này và các hóa chất khác tuyển các tế bào miễn dịch vào
vị trí nhiễm trùng và thúc đẩy việc chữa lành bất cứ mô nào bị tổn thương sau
khi tiêu diệt các tác nhân gây bệnh.[83]
Một số cơ chế khác và tiến hóa[sửa | sửa
mã nguồn]
Có khả năng là một hệ miễn dịch thích ứng
và nhiều thành phần ngày nay đã khởi đầu ở các động vật có xương
sống đầu tiên, vì động vật không
xương sống không tạo ra tế bào lympho hoặc phản ứng thể dịch
dựa trên kháng thể [1]. Tuy nhiên, cũng có
nhiều loài sử dụng các cơ chế mà dường như là tiền thân của các khía cạnh này
trong miễn dịch của động vật có xương
sống. Hệ miễn dịch xuất hiện ngay cả trong các hình thức cấu trúc
đơn giản nhất của sự sống, ví dụ với vi khuẩn sử dụng một cơ chế bảo vệ duy
nhất, được gọi là hệ thống điều chỉnh hạn chế để tự bảo vệ mình khỏi các mầm
bệnh virus, còn gọi là thực khuẩn thể.[84] Sinh vật nhân sơ cũng
có khả năng miễn dịch, thông qua một hệ thống sử dụng các trình tự CRISPR để giữ lại các mảnh của bộ gen của
thực khuẩn thể mà nó từng tiếp xúc với trong quá khứ, cho phép chúng ngăn chặn
sự nhân lên của virus dưới dạng can
thiệp RNA [85][86] Sinh vật nhân sơ cũng
còn các cơ chế phòng thủ khác [87][88] Các yếu tố tấn công
của hệ thống miễn dịch cũng có mặt ở sinh vật nhân chuẩn đơn bào, nhưng
các nghiên cứu về vai trò của chúng trong phòng vệ còn rất hạn chế.[89]
Thụ thể nhận dạng khuôn mẫu (Pattern
recognition receptor) là các protein được sử dụng bởi gần như tất cả các
sinh vật để xác định các phân tử liên quan đến các mầm bệnh. Các peptide kháng
khuẩn được gọi là defensin là
thành phần bảo thủ trong tiến hóa của đáp ứng miễn dịch bẩm sinh, được tìm thấy
ở tất cả các động vật và thực vật và thể hiện cho dạng chính của miễn dịch
ở động vật không
xương sống. Hệ thống bổ thể và thực bào cũng được sử dụng bởi
hầu hết các dạng của động vật không
xương sống. Ribonuclease (enzyme sẽ
thủy phân RNA) và con đường can
thiệp RNA được bảo tồn trên tất cả các sinh vật nhân thực, và
được cho là có vai trò trong phản ứng miễn dịch đối với virus.[90]
Không giống như động vật, thực vật không có
tế bào thực bào, nhưng nhiều phản ứng miễn dịch thực vật liên quan đến tín hiệu
hóa học hệ thống được gửi qua cây.[91] Các tế bào thực vật
riêng biệt đáp ứng với các phận tử liên quan đến các mầm bệnh gọi là mô hình
phân tử liên quan đến mầm bệnh (Pathogen-associated molecular pattern viết
tắt là PAMP).[92] Khi một phần của
cây bị nhiễm bệnh, cây sẽ đáp ứng quá mẫn cục bộ, nhờ đó các tế bào ở vị trí
nhiễm trùng bị chết theo chương trình nhanh
chóng để ngăn sự lây lan của bệnh đến các bộ phận khác của cây. Hệ thống cảm
ứng kháng bệnh thu được hay SAR (Systemic acquisition resistance) là một
loại phản ứng phòng vệ được sử dụng bởi các thực vât làm cho toàn bộ cây có khả năng
chống lại một tác nhân gây bệnh đặc biệt.[91] Các cơ chế
làm tắt RNA đặc
biệt quan trọng trong phản ứng có hệ thống này vì chúng có thể ngăn chặn sự nhân
lên của virus.[93]
Miễn dịch học khối u[sửa | sửa mã
nguồn] Các đại thực bảo đã xác định được một khối
tế bào ung thư (cái đám lớn, nhiều "gai" tua tủa). Khi dung hợp với
tế bào ung thư, các đại thực bào (tế bào màu trắng nhỏ hơn) tiết chất độc giết
chết tế bào khối u. Liệu pháp miễn dịch để điều trị ung thư là một lĩnh vực nghiên
cứu sôi nổi của y khoa.[94]
Một vai trò quan trọng khác của hệ thống
miễn dịch là xác định và loại bỏ khối u. Đây được gọi là giám
sát miễn dịch. Các tế
bào chuyển dạng của các khối u sẽ biểu hiện các kháng nguyên không tìm thấy trên các tế
bào bình thường. Đối với hệ thống miễn dịch, các kháng nguyên này là ngoại lai, sự hiện
diện của chúng làm các tế bào miễn dịch tấn công các tế bào khối u chuyển dạng.
Các kháng nguyên biểu hiện bởi các khối u có nhiều nguồn,[95] một số xuất phát từ
các virus gây ung thư như papillomavirus ở
người, gây ra ung thư cổ tử cung,[96] trong khi ở một số
khác thì do sai khác về nồng độ protein, thường là tế bào khối u với nồng độ
protein cao đột biến. Một ví dụ là một enzyme được gọi là tyrosinase (điều
khiển tổng hợp sắc tố melanin), khi biểu hiện ở mức cao, sẽ chuyển
dạng một số tế bào da (ví dụ như tế bào
hắc tố) thành các khối u ác tính (ung thư hắc tố).[97][98] Một nguồn tiềm năng
thứ ba của các kháng nguyên khối u, là các protein bình thường quan trọng điều
chỉnh sự tăng trưởng và sống sót của tế bào, thường đột biến thành các phần tử
gây ra ung thư gọi là gen sinh ung thư.[95][99][100]
Phản ứng chính của hệ thống miễn dịch đối
với các khối u là tiêu hủy các tế bào bất thường bằng cách sử dụng các tế bào T
độc, đôi khi với sự trợ giúp của các tế bào T hỗ trợ.[98][101] Các kháng nguyên
khối u được trình diện trên các phân tử MHC I loại tương tự như các kháng
nguyên virus. Điều này cho phép các tế bào T độc nhận ra tế bào khối u là bất
thường.[102] Các tế bào giết tự nhiên cũng triệt hạ các tế
bào ung thư một cách tương tự, đặc biệt nếu các tế bào khối u có ít MHC lớp I
trên bề mặt của chúng hơn bình thường; đây là một hiện tượng phổ biến với các
khối u.[103] Đôi khi các kháng
thể được tạo ra để chống lại tế bào
khối u, cho phép chúng phá huỷ bởi hệ thống bổ thể.[99]
Có một điều rất rõ ràng, một số khối u trốn
thoát hệ thống miễn dịch và tiến đến trở thành bệnh ung thư.[104][105] Các tế bào khối u
thường có một lượng giảm các phân tử MHC lớp I trên bề mặt của chúng, do đó
tránh phát hiện bởi các tế bào T độc.[102][104] Một số tế bào khối
u cũng giải phóng các sản phẩm ức chế đáp ứng miễn dịch; ví dụ bằng cách giải
phóng cytokine TGF-β, làm ức chế hoạt động của các đại thực bào và
lymphocyte.[104][106] Ngoài ra, dung nạp miễn dịch có
thể phát triển chống lại kháng nguyên khối u, do đó, hệ thống miễn dịch không
còn tấn công các tế bào khối u [104][105]
Rất nghịch lý là, các đại thực bào có thể
thúc đẩy phát triển khối u [107] khi tế bào khối u
phát ra các cytokine thu hút các
đại thực bào, sau đó tạo ra các cytokine và các yếu
tố tăng trưởng như yếu
tố hoại tử khối u-alpha (TNF-alpha) nuôi dưỡng sự phát triển khối u
hoặc tăng sự dẻo dai của tế bào giống tế bào gốc[104] Ngoài ra, sự kết
hợp của giảm oxy trong khối u và cytokine do các đại thực bào tạo ra làm cho
các tế bào khối u giảm sản xuất một protein ngăn chặn di căn và do đó giúp phát tán các tế bào
ung thư.[104]
Điều tiết sinh lý và miễn dịch[sửa | sửa
mã nguồn]
Hệ miễn dịch có liên quan mật thiết đến
nhiều khía cạnh của sự điều tiết sinh lý trong cơ thể. Hệ miễn dịch cũng tương
tác chặt chẽ với các hệ thống khác, như hệ nội tiết [108][109] và hệ thần kinh.[110][111][112] Hệ miễn dịch cũng
đóng một vai trò quan trọng trong sự phát triển của phôi thai, cũng như trong
việc sửa chữa và tái tạo
mô.
Hormone[sửa | sửa mã nguồn]
Hormone có thể
hoạt động như một bộ điều hoà miễn dịch, giúp thay đổi độ nhạy cảm của hệ miễn
dịch. Ví dụ, các hormone sinh dục nữ có thể sử dụng như các chất kích thích
miễn dịch của cả đáp ứng miễn dịch thu được [113] và đáp ứng miễn
dịch bẩm sinh.[114] Một số bệnh tự miễn
như lupus ban đỏ thường
hay gặp ở phụ nữ hơn, và thường khởi phát ở tuổi dậy thì. Ngược lại, các
hormone giới tính nam như testosterone lại là chất ức chế miễn
dịch.[115] Một số hormone khác
cũng có thể điều chỉnh hệ miễn dịch, đặc biệt là prolactin, hormone tăng trưởng (GH)
và vitamin D.[116][117]
Vitamin
D[sửa | sửa mã nguồn]
Khi một tế bào T gặp một mầm bệnh ngoại
lai, nó sẽ mở ra thụ
thể vitamin D (VDR).
Đây là tín hiệu quan trọng cho phép tế bào T liên kết với dạng hoạt động của
vitamin D, là hormone steroid calcitriol (1 vitamin D gắn 3 nhóm
hydroxyl). Các tế bào T có quan hệ gần giống "cộng sinh" với vitamin D. Tế bào T không
chỉ mở ra thụ thể vitamin D, để kết hợp với dạng hormone của vitamin D là
calcitriol mà tế bào T còn có thể biểu hiện gen CYP27B1, đó là gen
chịu trách nhiệm chuyển đổi tiền-hormone của vitamin D, calcidiol thành hormone steroid, calcitriol. Chỉ sau khi kết hợp với calcitriol
thì tế bào T mới có thể thực hiện chức năng dự định của chúng. Một số tế bào
miễn dịch khác cũng biểu hiện CYP27B1 là các tế bào nhiều nhánh, tế bào
sừng (keratinocyte) và đại thực bào [118][119]
Người ta suy đoán rằng sự giảm dần nồng độ
hormone cùng với tăng tuổi tác là một nguyên nhân gây ra đáp ứng miễn dịch suy
yếu ở những người già.[120] Ngược lại, một số
hormone lại được điều chỉnh bởi hệ miễn dịch, đặc biệt là hoạt động của
hormone tuyến giáp.[121] Sự suy giảm chức
năng miễn dịch liên quan đến tuổi cũng liên quan đến việc giảm mức vitamin D ở
người cao tuổi. Khi con người già đi, có hai điều xảy ra ảnh hưởng xấu đến lượng
vitamin D của họ. Thứ nhất, người già ở trong nhà nhiều hơn do giảm hoạt động.
Điều này cũng có nghĩa là họ ít chịu tác động bởi ánh sáng mặt trời và do đó
sản sinh ra ít hơn vitamin D3 qua
bức xạ UV.
Thứ hai, khi một người già đi, da trở nên ít chuyên hóa hơn trong việc sản xuất
vitamin D.[122]
Ngủ
và nghỉ [sửa | sửa mã nguồn]
Hệ miễn dịch cũng bị ảnh hưởng bởi ngủ và
nghỉ,[123] và thiếu ngủ là vô cùng hại cho chức năng
miễn dịch.[124] Các vòng phản hồi
phức tạp liên quan đến các cytokine, như interleukin-1
và yếu
tố hoại tử khối u-α sản xuất để đáp ứng với nhiễm trùng, cũng
có vai trò trong việc điều chỉnh giai đoạn ngủ chập chờn (non-REM).[125] Do đó đáp ứng miễn
dịch với nhiễm trùng có thể dẫn đến thay đổi chu kỳ ngủ, bao gồm cả tăng giấc
ngủ chập chờn so với giấc ngủ sâu.[126]
Khi bị thiếu ngủ, tạo miễn dịch chủ động có
thể khó khăn hơn và có thể dẫn đến sản xuất kháng thể không cao và đáp ứng miễn dịch
thấp hơn so với những người ngủ bình thường. Ngoài ra, các protein như NFIL3 (có
liên quan chặt chẽ với sự biệt hóa các tế bào T và nhịp sinh học) có
thể bị ảnh hưởng bởi sự thay đổi của nhịp sáng-tối tự nhiên trong các trường
hợp thiếu ngủ, thay đổi ca làm việc... kết quả là những sự gián đoạn này có thể
dẫn đến sự gia tăng các bệnh mãn tính như bệnh tim, đau mãn tính,
và hen suyễn.[127]
Ngoài các hậu quả tiêu cực của việc thiếu
ngủ, giấc ngủ và nhịp sinh học đã cho thấy có những ảnh hưởng điều chỉnh mạnh
mẽ đối với các chức năng miễn dịch của cả miễn dịch bẩm sinh và thích nghi. Thứ
nhất, trong giai đoạn đầu của ngủ sâu-SWS, sự giảm nồng độ cortisol, epinephrine và norepinephrine trong máu sẽ làm tăng nồng
độ hormone leptin, hormone tăng trưởng tuyến yên và prolactin. Những tín hiệu này tạo ra trạng
thái viêm hệ
thống (pro-imflammatory) thông qua việc sản sinh
các cytokine: pro-interleukin-1, interleukin-12, TNF-alpha và IFN-gamma.
Những cytokine sau đó sẽ kích thích chức năng
miễn dịch như hoạt hóa tế bào miễn dịch, tăng sinh và biệt hóa. Trong thời gian
này mà các tế bào chưa biệt hóa, hoặc ít biệt hóa (giống như các tế bào T nhớ
non và T nhớ trung tâm) sẽ đạt đỉnh (cụ thể hơn là trong thời gian này, đáp ứng
miễn dịch thu được đang sẽ chậm hơn). Ngoài các tác động này,
môi trường cơ thể do các hormone được sản xuất tại thời điểm này (leptin,
hormone tăng trưởng tuyến yên và prolactin) sẽ hỗ trợ sự tương tác giữa tế bào
trình diện kháng nguyên và tế bào T, sự dịch chuyển cân bằng cytokine Th1 / Th2 về
bên Th1,
tăng số lượng chung của tế bào Th, và tế bào T non sẽ đi đến các hạch bạch huyết.
Môi trường này cũng được cho là hỗ trợ sự hình thành trí nhớ miễn dịch lâu dài
thông qua việc bắt đầu các phản ứng miễn dịch Th1.[128]
Ngược lại, trong thời gian thức, các tế bào
tác dụng biệt hóa, như các tế bào giết tự nhiên và tế bào lympho T
độc, sẽ đạt đỉnh để tạo ra đáp ứng hiệu quả chống lại bất kỳ mầm bệnh xâm nhập
nào. Cũng như trong thời gian hoạt động tích cực, các phân tử chống viêm,
như cortisol và catecholamine,
sẽ đạt đỉnh. Có hai lý thuyết để giải thích tại sao trạng thái viêm hệ
thống được dành riêng cho thời gian ngủ. Thứ nhất, viêm sẽ gây
ra sự suy giảm nhận thức và thể chất nghiêm trọng nếu nó xảy ra trong suốt thời
gian thức. Thứ hai, viêm có thể xảy ra trong thời gian ngủ do sự hiện diện
của melatonin-một horrmone điều hòa nhịp sinh học.
Viêm gây ra rất nhiều stress oxy hóa và sự hiện diện của melatonin trong thời
gian ngủ có thể tích cực chống lại quá trình sản sinh gốc tự do trong thời gian
này.[128][129]
Dinh
dưỡng và chế độ ăn uống[sửa | sửa
mã nguồn]
Suy dinh dưỡng liên
quan đến các bệnh như tiểu đường và béo phì, được biết là ảnh hưởng đến chức
năng miễn dịch. Suy dinh dưỡng trung bình, cũng như thiếu hụt một số khoáng
chất vi lượng và chất dinh dưỡng, cũng có thể ảnh hưởng đến đáp ứng miễn dịch.[130]
Thực phẩm giàu một số axit béo nhất định có thể thúc đẩy hệ
thống miễn dịch khỏe mạnh.[131] Tương tự như
vậy, suy
dinh dưỡng thai nhi có thể gây suy yếu hệ thống miễn dịch suốt
đời.[132]
Sửa
chữa và phục hồi mô[sửa | sửa
mã nguồn]
Hệ miễn dịch, đặc biệt là các thành phần
của hệ bẩm sinh, đóng một vai trò quyết định trong việc sửa chữa mô sau khi bị
thương [133][134][135][136][137] Các tác nhân chủ
chốt bao gồm các đại thực bào và bạch cầu trung tính,
nhưng các tế bào khác, như các tế bào T γδ, tế bào lympho bẩm sinh (ILC)
và các tế bào T điều hòa cũng rất quan trọng. Sự dẻo dai các tế bào miễn dịch
và sự cân bằng giữa các tín hiệu viêm hệ thống và chống viêm là các khía cạnh
quan trọng trong việc sửa chữa mô hiệu quả [137]. Các thành phần miễn
dịch và các con đường cũng tham gia vào quá trình phục hồi, ví dụ ở động vật
lưỡng cư. Theo một giả thuyết, các sinh vật có thể tái tạo các bộ phận trên cơ
thể (ví dụ như thạch sùng) có đáp ứng miễn dịch kém hơn các
sinh vật không thể tái tạo được [138][139]
Tác động của dược phẩm[sửa | sửa
mã nguồn]
Đáp ứng miễn dịch có thể được điều khiển để
ngăn chặn các đáp ứng không mong muốn như bệnh tự miễn, dị ứng, và thải
loại mảnh ghép (trong cấy ghép nội tạng),
hoặc kích thích các đáp ứng bảo vệ để chống lại các mầm bệnh mà phần lớn đang
lọt qua hệ miễn dịch (xem Tiêm chủng) hoặc ung thư.
Ức
chế miễn dịch[sửa | sửa mã
nguồn]
Thuốc ức chế miễn dịch thường được sử dụng
để kiểm soát bệnh tự miễn hoặc
đáp ứng viêm khi mô bị tổn thương quá mức, hoặc
để ngăn chặn việc thải loại mảnh ghép sau khi ghép tạng.[35][140]
Thuốc chống viêm thường được sử dụng để
kiểm soát tác động của viêm. Glucocorticoid là
thuốc mạnh nhất trong số những thuốc này; tuy nhiên, thuốc này có thể có nhiều
tác dụng phụ không mong muốn, như béo
phì vùng bụng, cao đường huyết, loãng xương, và việc
sử dụng phải được kiểm soát chặt chẽ [141]. Các liều thấp hơn của
thuốc chống viêm thường được sử dụng kết hợp với thuốc gây độc tế bào hoặc
thuốc ức chế miễn dịch như methotrexate hoặc azathioprine. Thuốc gây độc tế bào ức chế đáp
ứng miễn dịch bằng cách giết các tế bào đang phân chia như tế bào T hoạt hóa.
Tuy nhiên, việc "giết" này không chính xác; các tế bào phân chia liên
tục khác và các cơ quan cũng có thể bị ảnh hưởng khiến tạo ra các phản ứng phụ
nguy hiểm.[140] Các thuốc ức chế
miễn dịch như cyclosporin ngăn
không cho tế bào T trả lời chính xác các tín hiệu bằng cách ức chế các con
đường dẫn truyền tín hiệu.[142]
Tăng
cường miễn dịch[sửa | sửa mã
nguồn]
Liệu
pháp miễn dịch ung thư gồm các phương pháp y học để kích
thích hệ thống miễn dịch để tấn công các khối u ác tính.
Các phương pháp lý thuyết để tiếp cận hệ miễn
dịch [sửa | sửa mã nguồn]
Miễn dịch học là
bộ môn mang tính thực nghiệm mạnh mẽ, nhưng cũng được đặc trưng bởi những quan
điểm, lý thuyết liên tục được đề xuất. Nhiều lý thuyết đã được đề xuất liên
quan đến miễn dịch học từ cuối thế kỷ XIX đến thời điểm hiện tại. Cuối của thế
kỷ 19 và đầu thế kỷ 20 đã chứng kiến một cuộc "so găng" giữa hai lý
thuyết: "tế bào" và "thể dịch" về miễn dịch. Theo lý thuyết
miễn dịch "tế bào", với đại diện nổi bật là Elie Metchnikoff, cho rằng: chính các tế bào -
hay chính xác hơn, các tế bào thực bào -
có trách nhiệm trong đáp ứng miễn dịch. Ngược lại, lý thuyết miễn dịch
"thể dịch", được Robert Koch và Emil
von Behring ủng hộ, cho rằng: tác nhân đáp ứng miễn dịch phải
là các thành phần (hay phân tử) hòa tan được tìm thấy trong các "thể
dịch" (dịch của cơ thể) hơn là trong các tế bào.[143][144][145]
Vào giữa những năm 1950, Frank Burnet,
lấy cảm hứng từ một gợi ý của Niels
Jerne,[146] đã xây dựng lý
thuyết lựa chọn dòng (clonal selection theory hay CST).[147] Trên cơ sở CST,
Burnet đã phát triển một lý thuyết về làm thế nào đáp ứng miễn dịch được kích
hoạt bằng sự phân biệt "của bản thân/không của bản thân": các
thành phần của bản thân (thành phần cấu tạo của cơ thể) thì không gây ra đáp
ứng miễn dịch 'tiêu diệt', trong khi các thành phần không của bản thân (mầm
bệnh, hay mảnh
ghép dị loại-allograft) sẽ kích hoạt một phản ứng miễn dịch
'tiêu diệt'.[148] Lý thuyết này sau
đó đã được sửa đổi để phù hợp với các phát hiện mới về phức hệ hòa
hợp mô chính hay sự hoạt hóa "song tín hiệu" phức tạp
của các tế bào T.[149] Lý thuyết miễn dịch
"của bản thân/không của bản thân" đã bị chỉ trích,[145][150][151] nhưng vẫn rất có
ảnh hưởng.[152][153]
Gần đây hơn, một số lý thuyết đã được đề
xuất trong miễn dịch học, bao gồm các quan điểm như "tự sinh"
(autopoiesis),[154] quan niệm "miễn
dịch nhận thức" (cognitive immune),[155] "mô
hình nguy hiểm" (danger model),[150] và thuyết "gián đoạn"(discontinuity).[156][157][158] "Mô hình nguy
hiểm", được đề xuất bởi Polly
Matzinger và các đồng nghiệp, đã có ảnh hưởng lớn, gây ra nhiều
ý kiến và thảo luận.[159][160][161][162]
Dự đoán khả năng sinh miễn dịch [sửa | sửa
mã nguồn]
Những thuốc lớn (> 500 Dalton) có thể
dẫn đến đáp ứng miễn dịch làm trung hòa thuốc, đặc biệt nếu dùng thuốc nhiều
lần, hoặc với liều lớn hơn. Điều này làm hạn chế hiệu quả của các thuốc với bản
chất là peptide và protein khá lớn (loại này thường >6000
Da). Trong một số trường hợp, bản thân thuốc không gây miễn dịch, nhưng được
pha chế cùng các chất gây miễn dịch, như trường hợp của Taxol.
Các phương pháp tính toán trên các phần mềm đã được phát triển để tiên đoán khả
năng gây miễn dịch của peptide và protein, đặc biệt hữu ích trong việc thiết kế
các kháng thể trị
liệu, đánh giá độc lực của các thể đột biến ở các tiểu phần trên vỏ virus và
xác nhận các phương pháp điều trị sử dụng thuốc peptide được đề xuất. Các kỹ
thuật ban đầu dựa chủ yếu vào việc quan sát thấy các amino acid ưa nước rất điển hình ở các
vùng epitope hơn các amino acid không ưa nước.[163] Tuy nhiên, những
cải tiến gần đây dựa vào các kỹ thuật máy tính sử dụng cơ sở dữ liệu của
các epitope hiện có, thường là trên các
protein virus được nghiên cứu kỹ, còn gọi là dữ liệu huấn luyện.[164] Một ngân hàng dữ
liệu có thể truy cập công cộng đã được thiết lập cho việc biên mục các epitope từ các mầm bệnh mà các tế bào B có thể nhận biết
được.[165] Các địa hạt đang
nổi lên dựa trên các nghiên cứu của tin sinh học về miễn dịch học được
gọi là miễn
dịch thông tin học (immunoinformatic).[166] Phân ngành miễn
dịch protein học (immunoproteomic) là nghiên cứu của số
lượng lớn protein (proteomic) tham gia vào đáp ứng miễn dịch.
Tác động của mầm bệnh [sửa | sửa mã
nguồn]
Sự thành công của bất kỳ mầm bệnh nào phụ
thuộc vào khả năng lách qua các phản ứng miễn dịch của vật
chủ. Do đó, các mầm bệnh đã phát triển một số phương pháp cho phép chúng lây
nhiễm thành công vật chủ, trong khi tránh được sự phát hiện hoặc phá hủy bởi hệ
miễn dịch.[167] Vi khuẩn thường
vượt qua các hàng rào vật lý bằng cách giải phóng các enzyme phân
giải hàng rào, ví dụ bằng cách sử dụng hệ
thống tiết kiểu II (T2SS) ở vi khuẩn Gram (-).[168] Ngoài ra, sử dụng
hệ thống tiết kiểu III (T3SS), chúng có thể "tiêm" một ống
rỗng vào tế bào chủ, tạo ra một đường dẫn trực tiếp cho các protein di chuyển từ mầm bệnh sang vật
chủ. Những protein này thường được sử dụng để đánh sập hệ thống phòng thủ.[169]
Một chiến thuật để "lách" hệ miễn
dịch bẩm sinh khác được sử dụng bởi một số mầm bệnh là ẩn mình trong các tế bào
của vật chủ (còn gọi là sinh bệnh nội bào hay intracellular pathogenesis).
Ở đây, một mầm bệnh dành phần lớn vòng đời của nó trong tế bào chủ, vậy là nó
được bảo vệ, không tiếp xúc trực tiếp với các tế bào miễn dịch, kháng thể và bổ thể. Một số ví dụ về các tác nhân sinh bệnh
nội bào có thể kể đến như virus, vi khuẩn gây ngộ độc thực phẩm Salmonella và ký sinh trùng nhân thực
gây bệnh sốt rét (Plasmodium
falciparu)) và bệnh do Leishmania (Leishmania
spp.). Các vi khuẩn khác, như Mycobacterium
tuberculosis, sống trong một màng bảo vệ để ngăn ngừa sự làm tan
do bổ thể.[170] Nhiều mầm bệnh tiết
ra các hợp chất làm giảm hoặc làm lệch đáp ứng miễn dịch của vật chủ.[167] Một số vi khuẩn
hình thành màng sinh học để
bảo vệ bản thân khỏi các tế bào và các protein của hệ miễn dịch. Những màng sinh
học này thường có mặt trong các trường hợp nhiễm trùng thành công, ví dụ
như Pseudomonas
aeruginosa mãn tính và nhiễm Burkholderia cenocepacia đặc trưng của xơ nang.[171] Một số vi khuẩn
khác tạo ra các protein bề mặt gắn kết với các kháng thể, vô hiệu hóa chúng; ví
dụ như Streptococcus (protein
G), Staphylococcus aureus (protein
A), và Peptostreptococcus magnus (protein
L).[172]
Các cơ chế được sử dụng để né tránh hệ
thống miễn dịch thu được thì phức tạp hơn. Cách tiếp cận đơn giản nhất là liên
tục thay đổi các epitope không cần
thiết (các amino acid và/hoặc đường) trên bề mặt của mầm bệnh, trong khi giữ
các epitope quan trọng thì được giấu kín. Đây được gọi là biến thể kháng nguyên
(antigenic variation). Một ví dụ là HIV,
virus này đột biến rất nhanh, do đó, các protein trên vỏ virus (mà cần thiết để
xâm nhập vào tế bào đích của vật chủ) không ngừng thay đổi. Sự biến thể kháng
nguyên liên tục này có thể giải thích vì sao vaccine lại thất bại đối với virus này.[173] Ký sinh trùng Trypanosoma
brucei sử dụng một chiến lược tương tự, liên tục biến đổi
loại protein bề mặt này thành một loại protein
khác, cho phép nó luôn đi trước một bước trước phản ứng kháng thể.[174] Che đậy kháng
nguyên bằng các phân tử của vật chủ là một chiến lược phổ biến khác để tránh sự
phát hiện của hệ thống miễn dịch. Ở HIV,
vỏ bọc virion có nguồn gốc từ màng sinh chất của
tế bào chủ; những loại virus "tự giấu mình" như vậy làm cho hệ thống
miễn dịch rất khó xác định được chúng là những cấu trúc "không của bản
thân".[175]
Tóm tắt
Miễn dịch đặc hiệu & Miễn dịch không đặc hiệu/
Miễn dịch tế bào và miễn dịch dịch thể/Ứng dụng
Xem nhanh Hệ miễn dịch hoạt động bảo vệ cơ thể như thế nào?
https://www.youtube.com/watch?v=jEd-MtgdMf0&t=538s
Hệ miễn dịch là hàng rào sinh học bảo vệ cơ thể giúp ngăn chặn và giảm thiểu tác động xấu do mầm bệnh đem lại. Thông thường theo cơ chế bảo vệ, hệ miễn địch được chia làm hai loại:
– Miễn dịch không đặc hiệu.(bẩm sinh congenital immunity)
– Miễn dịch đặc hiệu.(thụ đắc acquired immunity)
Mỗi hệ thống đều bao gồm miễn dịch tế bào và miễn dịch dịch thể. Vậy cơ chế đáp ứng hệ thống miễn dịch của chúng có những đặc điểm gì? Chức năng ra sao? Miễn dịch tế bào và miễn dịch dịch thể
1.Miễn dịch tế bào và miễn dịch dịch thể trong hệ thống miễn dịch không đặc hiệu
Đây là hai cơ chế chuyên biệt tham gia đáp ứng miễn dịch không đặc hiệu của cơ thể.
1.1 Miễn dịch tế bào
Thành phần các tế bào tham gia đáp ứng miễn dịch không đặc hiệu gồm:
– Bạch cầu hạt
Bạch cầu hạt chiếm đa số khoảng 60-70% bạch cầu máu ngoại vi. Chúng có đời sống ngắn từ 3-4 ngày. Các bạch cầu hạt bao gồm các bạch cầu ái toan, bạch cầu ái kiềm và bạch cầu trung tính. Trong số đó, bạch cầu hạt trung tính là chủ yếu, tích cực tham gia vào phản ứng viêm. Nhờ khả năng thực bào và trong bào tương chứa các hạt có nhiều enzym tiêu đạm, enzym thủy phân.
Còn lại là bạch cầu ái toan giúp đề kháng với ký sinh trùng, phản ứng dị ứng tại chỗ trong khi bạch cầu ái kiềm tương tự như tế bào mast giải phóng và tổng hợp các chất trung gian. Một số chất trung gian đó là histamin, serotonin, leucotrien.
– Bạch cầu đơn nhân
Bạch cầu đơn nhân có nguồn gốc từ tủy xương. Chúng lưu hành trong hệ tuần hoàn. Nhờ khả năng thực bào mạnh, bạch cầu đơn nhân đóng vai trò lớn trong việc dọn dẹp các vật lạ, các tổ chức bị phá hủy và các tế bào già.
Ngoài ra, tế bào đơn nhân còn chủ động tham gia mở đầu cho đáp ứng miễn dịch đặc hiệu. Chúng biệt hóa thành các tế bào trình diện kháng nguyên cho các tế bào lympho T. Đồng thời còn tiết ra các cytokin gây độc.
– Tế bào tự nhiên NK
Về hình thái, tế bào NK mang những đặc điểm giống tế bào lympho T và B. Tuy nhiên, trong bào tương tế bào NK có những hạt lớn và không có dấu ấn (marker) như hai loại tế bào lympho trên.
Tế bào NK có khả năng diệt các tế bào ung thư, tế bào virus không cần mẫn cảm trước và không bị giới hạn bởi phức hợp hòa hợp mô.
1.2. Miễn dịch dịch thể
Thành phần dịch thể tham gia đáp ứng miễn dịch không đặc hiệu bao gồm:
– Lysozym
Đây là một loại enzym rất gần gũi, có trong nước mắt, nước bọt và dịch nhầy. Lysozym có vai trò cắt cầu nối phân tử của màng vi khuẩn. Nó giúp ly giải một số vi khuẩn gram dường và hiệp lực cùng bổ thể tấn công vi khuẩn gram âm.
– Các protein viêm
Là các protein được tạo ra trong pha cấp của phản ứng viêm. Có thể kể đến nhóm protein CRP, nó còn được ứng dụng trong y học lâm sàng để chẩn đoán và theo dõi viêm bằng cách định lượng CRP huyết thanh.
– Bổ thể
Bổ thể bao gồm 25 loại protein huyết thanh. Chúng tham gia vào cả cơ chế đề kháng tự nhiên và miễn dịch đặc hiệu.
2. Miễn dịch tế bào và miễn dịch dịch thể trong hệ thống miễn dịch đặc hiệu
2.1. Miễn dịch tế bào
Để đáp ứng miễn dịch đặc hiệu, cơ thể cần đến các tế bào tham gia chủ yếu là các tế bào lympho có nguồn gốc tủy xương. Nhờ quá trình biệt hóa khác nhau. Vì vậy quần thể tế bào lympho được chia thành 2 loại:
– Tế bào lympho T.
– Tế bào lympho B.
Ngoài ra, một số tế bào khác cũng tham gia đáp ứng miễn dịch đặc hiệu như: tế bào trình diện kháng nguyên, dưỡng bào, bạch cầu trung tính…
2.2. Miễn dịch dịch thể
Thành phần tham gia đáp ứng chính là điểm khác biệt giữa miễn dịch tế bào và miễn dịch dịch thể. Kháng thể là yếu tố dịch thể tham gia đáp ứng miễn dịch. Đây là những phân tử hiện diện trong máu và dịch niêm mạc. Chúng có khả năng liên kết với các vi sinh vật hoặc độc tố để xúc tiến loại trừ. Một số khác lại có giúp kích thích tế bào bạch cầu sản xuất ra các chất trung gian của phản ứng viêm. (xem phần kháng thề)
Ngày nay, cùng với sự phát triển của các liệu pháp chữa bệnh đặc trị thì liệu pháp miễn dịch cũng được áp dụng song hành. Liệu pháp này dựa trên hai cơ chế miễn dịch tế bào và miễn dịch dịch thể. Nhằm giúp tăng cường khả năng miễn dịch của cơ thể, kháng bệnh hiệu quả.
Ví như căn bệnh ung thư gây hoang mang cho toàn nhân loại cũng đã có những bước tiến mới. Đó là nhờ liệu pháp điều trị miễn dịch này. Song hành cùng các liệu pháp truyền thống phẫu thuật, hóa trị, xạ trị thì liệu pháp miễn dịch giúp tăng sức đề kháng cơ thể. Từ đó giảm thời gian chữa trị, ít tác dụng phụ, tỷ lệ khỏi bệnh cao.
Vitamin C và miễn dịch
Lịch sử lâu đời của vitamin C: Từ việc ngăn ngừa cảm lạnh thông thường đến hỗ trợ tiềm năng trong điều trị COVID-19
The Long History of Vitamin C: From Prevention of the Common Cold to Potential Aid in the Treatment of COVID-19
https://www.frontiersin.org/articles/10.3389/fimmu.2020.574029/full
Từ các lý thuyết của Pauling cho đến nay, người ta đã thu thập được nhiều hiểu biết đáng kể về cả vai trò sinh lý của vitamin C và tác động của việc bổ sung vitamin C đối với sức khỏe. Mặc dù ai cũng biết rằng một chế độ ăn uống cân bằng đáp ứng đủ lượng vitamin C hấp thụ hàng ngày ảnh hưởng tích cực đến hệ thống miễn dịch và giảm tính nhạy cảm với các bệnh nhiễm trùng, dữ liệu hiện có không ủng hộ giả thuyết rằng bổ sung vitamin C bằng đường uống tăng cường khả năng miễn dịch. Không có khuyến cáo lâm sàng hiện tại nào ủng hộ khả năng giảm đáng kể nguy cơ nhiễm trùng đường hô hấp bằng cách sử dụng bổ sung vitamin C liều cao ở nhóm dân số nói chung được nuôi dưỡng tốt. Chỉ trong các phân nhóm bị hạn chế (ví dụ, vận động viên hoặc quân đội) và ở những đối tượng có nồng độ vitamin C trong huyết tương thấp, việc bổ sung có thể là hợp lý. Hơn nữa, ở những đối tượng có nguy cơ nhiễm trùng cao (tức là người béo phì, bệnh nhân tiểu đường, người cao tuổi, v.v.), bổ sung vitamin C có thể điều chỉnh tình trạng viêm, có tác dụng tích cực tiềm năng đối với phản ứng miễn dịch đối với nhiễm trùng. Tác động của việc uống thêm vitamin C qua đường miệng trong thời gian bị cảm lạnh và việc phòng ngừa hoặc điều trị viêm phổi vẫn còn bị nghi ngờ, trong khi dựa trên các nghiên cứu về bệnh hiểm nghèo, việc truyền vitamin C gần đây đã được giả thuyết như một phương pháp điều trị COVID-19 nhập viện. người bệnh. Trong bài tổng quan này, chúng tôi tập trung vào tác dụng của vitamin C đối với chức năng miễn dịch, tóm tắt các nghiên cứu có liên quan nhất từ việc phòng ngừa và điều trị các bệnh đường hô hấp thông thường đến việc sử dụng vitamin C trong các tình trạng bệnh hiểm nghèo, với mục đích làm rõ ứng dụng tiềm năng của nó trong nhiễm trùng SARS-CoV2 cấp tính.
Giới thiệu
Vitamin C (axit ascorbic) đóng một vai trò quan trọng trong hoạt động bình thường của hệ thống miễn dịch (1–4) và việc sử dụng nó trong việc ngăn ngừa và / hoặc điều trị nhiễm trùng đã thu hút mạnh mẽ sự quan tâm của các bác sĩ và các nhà nghiên cứu trong gần một thế kỷ. Rất nhiều bài báo đã được xuất bản về chủ đề này, nhưng, mặc dù ai cũng biết rằng sự thiếu hụt vitamin C do lượng dinh dưỡng thấp dẫn đến khả năng bị nhiễm trùng cao hơn (5), khả năng giảm tỷ lệ mắc các bệnh do vi rút. trong một dân số được nuôi dưỡng tốt thông qua việc sử dụng các chất bổ sung chế độ ăn uống dựa trên vitamin C không được hỗ trợ đầy đủ trong y văn. Hiện tại, rất ít bằng chứng ủng hộ lợi ích của việc bổ sung vitamin C liều cao đối với chức năng miễn dịch ở những người khỏe mạnh (4, 6) và một số tác giả đã nhấn mạnh rằng phương pháp này không hiệu quả trong việc ngăn ngừa cảm lạnh thông thường và nhiễm virus ở hầu hết các đối tượng (7 –12). Mặc dù vậy, niềm tin phổ biến rằng bổ sung vitamin C có thể tăng cường hệ thống miễn dịch vẫn còn phổ biến và hàng năm thị trường tuyên bố rằng việc sử dụng chất bổ sung là một phương thuốc mùa đông để ngăn ngừa bệnh truyền nhiễm.
Mặc dù quan điểm hiện tại của các nhà khoa học là không khuyến nghị sử dụng bổ sung vitamin C để ngăn chặn sự xâm nhập của virus ở những đối tượng khỏe mạnh, nhưng dữ liệu hứa hẹn hơn - mặc dù còn nghi vấn - thay vào đó dường như xuất hiện từ việc tiêm tĩnh mạch (IA) vitamin này trong tình trạng hô hấp cấp tính hoặc nguy kịch bệnh tật. Hơn nữa, một vai trò dược lý tiềm năng trong giai đoạn đầu của nhiễm coronavirus mới (SARS-CoV2) và bệnh liên quan của nó (COVID-19) gần đây đã được đưa ra (13–18). Sự lây lan nhanh chóng trên toàn thế giới của SARS-CoV2 và hậu quả là tình trạng khẩn cấp về đại dịch được Tổ chức Y tế Thế giới công nhận đòi hỏi một nỗ lực toàn cầu để xác định bất kỳ thứ gì có thể điều trị các triệu chứng và giảm tử vong. Vào đầu tháng 6, hơn 6.600.000 trường hợp nhiễm bệnh và 391.000 trường hợp tử vong liên quan đến COVID-19 đã được báo cáo trên toàn cầu và số trường hợp không ngừng gia tăng trên toàn thế giới (19). Hiện tại, không có liệu pháp kháng vi-rút cụ thể nào được chấp thuận để chữa khỏi COVID-19 (20), và điều này khiến các nhà nghiên cứu suy đoán về một phương pháp điều trị bổ trợ có thể dựa trên bằng chứng gián tiếp từ những bệnh nhân bị bệnh nặng và bệnh nhân bị nhiễm trùng huyết (21). Nhiễm trùng huyết là một rối loạn chức năng cơ quan đe dọa tính mạng do phản ứng của vật chủ bị suy giảm đối với nhiễm trùng, đặc trưng bởi sự suy giảm nghiêm trọng của hệ thống tuần hoàn, chuyển hóa và miễn dịch, và được coi là nguyên nhân chính gây tử vong do nhiễm trùng: bệnh nhân bị sốc nhiễm trùng có thể bị tỷ lệ tử vong tại bệnh viện lên đến 50% (22). Trên các tài liệu về điều kiện lâm sàng này cho thấy rằng liều cao vitamin C bằng cách truyền tĩnh mạch có thể làm giảm sản xuất cytokine gây viêm và có khả năng cải thiện các kết quả quan trọng như thời gian thở máy và tỷ lệ tử vong (13-18). Điều này có tầm quan trọng đặc biệt vì hội chứng suy hô hấp cấp tính (ARDS) là một trong những tình trạng nghiêm trọng thường gặp nhất được đăng ký ở bệnh nhân COVID-19 (23). ARDS là một hội chứng nghiêm trọng và trong một số trường hợp có thể gây tử vong, đặc trưng bởi phản ứng viêm mạnh với tổn thương phế nang lớn và suy đa cơ quan, cần điều trị tại đơn vị chăm sóc đặc biệt (ICU) (24). Các tác giả báo cáo tỷ lệ trường hợp ARDS khoảng 15% trong số bệnh nhân nhập viện do nhiễm SARS-CoV2 (25).
Dữ liệu về việc sử dụng vitamin C tiêm tĩnh mạch ở bệnh nhân COVID-19 vẫn chưa có, nhưng các thử nghiệm lâm sàng để khám phá hiệu quả của phương pháp điều trị này hiện đang được tiến hành ở một số quốc gia (26) và các kết quả quan trọng sẽ sớm có.
Dựa trên những điều trên, mục đích của bài tổng quan này trước hết là tóm tắt vai trò miễn dịch của vitamin C với mô tả các tác dụng tiềm tàng của nó như một chất bổ sung chế độ ăn uống, trên các cơ chế liên quan trong quá trình nhiễm vi-rút đường hô hấp, và liên quan đến phản ứng viêm được xem xét khác nhau loại đối tượng và tình trạng lâm sàng; thứ hai, bản thảo mô tả tài liệu cập nhật về IA của vitamin C trong điều trị nhiễm trùng huyết nặng và các tình trạng ARDS, với mục đích xác định liệu nền tảng lâm sàng hiện tại về chủ đề này có đưa ra những quan điểm đủ mạnh để đề xuất vitamin C cho ứng dụng dược lý hay không. giảm sản xuất cytokine mạnh mẽ và điều chỉnh các phản ứng miễn dịch liên quan đến COVID-19 được công nhận khác.
Vitamin C và Điều hòa hệ thống miễn dịch
Bên cạnh một loạt các con đường sinh hóa trong đó vitamin C tham gia,
nó cũng tham gia vào phản ứng của hệ thống miễn dịch bẩm sinh và thích ứng (1). Hàm lượng nội bào của vitamin C trong các tế bào miễn dịch phụ thuộc vào sự sẵn có của huyết tương. Ở người lớn khỏe mạnh, hàm lượng vitamin C trong bạch cầu có thể bão hòa với lượng tiêu thụ ít nhất 100 mg vitamin C mỗi ngày, thông qua thực phẩm, đạt được nồng độ tương ứng khoảng 3,5, 3 và 1,5 mmol / L trong tế bào bạch huyết, bạch cầu đơn nhân và bạch cầu trung tính (39, 62–65). Sự hấp thụ vitamin C từ máu của bạch cầu rất hiệu quả, thông qua các protein SVCT (66), dẫn đến hàm lượng nội bào lớn hơn từ 50 đến 100 lần so với nồng độ trong huyết tương (67, 68). Là một chất chống oxy hóa hiệu quả, vitamin C góp phần bảo vệ bạch cầu trung tính khỏi stress oxy hóa trong giai đoạn đầu của phản ứng miễn dịch, khi bạch cầu trung tính kích hoạt quá trình thực bào và tạo ra các loại oxy phản ứng (ROS) để tiêu diệt kháng nguyên (69, 70). Một khi khả năng thực bào cạn kiệt và bạch cầu trung tính bắt đầu chết, vitamin C dường như điều chỉnh quá trình có lợi cho quá trình apoptosis, thông qua việc kích hoạt một dòng thác phụ thuộc caspase, ức chế quá trình chuyển đổi sang hoại tử, và dẫn đến việc phân giải viêm hiệu quả hơn ( 71).
Vitamin C cũng tham gia vào quá trình di chuyển của các tế bào thực bào (bạch cầu trung tính và đại thực bào) đến các vị trí nhiễm trùng để phản ứng với thuốc hóa trị (72, 73). Điều này đặc biệt quan trọng vì đã quan sát thấy sự suy giảm khả năng điều hòa hóa học của bạch cầu trung tính ở những bệnh nhân bị nhiễm trùng nặng (74–76). Hơn nữa ở những đối tượng có nồng độ vitamin C trong máu thấp (<50 µmol / L), việc tiêu thụ 250 mg vitamin C hàng ngày có thể làm tăng 20% khả năng di chuyển của bạch cầu trung tính (6). Ngược lại, ở những người có nồng độ vitamin C trong máu sinh lý, tính di động của bạch cầu trung tính không thể được tăng cường, như đã được chứng minh bởi Bozonet và cộng sự. (4), trong đó bạch cầu trung tính được phân lập từ những người tình nguyện khỏe mạnh và được ủ với dung dịch vitamin C (200 µmol / L) để tăng hàm lượng ascorbate một cách giả tạo không cho thấy khả năng hóa học chính.
Tương tự như bạch cầu trung tính, vitamin C bảo vệ các tế bào lympho khỏi bị oxy hóa (77) và có vai trò quan trọng trong sự phát triển và chức năng của các tế bào này, mặc dù cơ chế chính xác vẫn chưa được làm rõ (3). Trong tế bào lympho T, vitamin C kích thích sự biệt hóa và tăng sinh từ tiền thân thành tế bào T trưởng thành, theo cách phụ thuộc vào liều lượng (78). Các nghiên cứu về ảnh hưởng của vitamin C đến các phân nhóm tế bào T chủ yếu liên quan đến sự cân bằng Th1 / Th2. Các báo cáo nhấn mạnh rằng vitamin C có thể tạo ra sự thay đổi phản ứng miễn dịch từ Th2 sang Th1 (3),
trong khi chỉ có một nghiên cứu cho thấy rằng vitamin C có thể gây ra sự phân cực Th17 của các tế bào CD4 + chưa từng có trong mô hình chuột, ảnh hưởng đến cơ chế biểu sinh (79). Hiện tại, chưa có nghiên cứu nào khám phá tác dụng của vitamin C đối với tế bào T gây độc tế bào (3). Trong tế bào lympho B, vitamin C dường như ảnh hưởng đến việc sản xuất kháng thể, mặc dù có bằng chứng mâu thuẫn (80–87). Mức độ sinh lý của Vitamin C cũng cần thiết cho sự phát triển và chức năng bình thường của tế bào tiêu diệt tự nhiên (NK) (3). Ở những con chuột được bổ sung vitamin C, hoạt tính gây độc tế bào NK (NKCA) thấp hơn ở những con chuột có mức vitamin C bình thường (88), trong khi nồng độ ascorbate siêu sinh lý không làm tăng thêm NKCA (89).
Vitamin C cũng điều chỉnh phản ứng viêm. Trong các nghiên cứu trên động vật, sự thiếu hụt vitamin C có liên quan đến mức histamine tuần hoàn cao hơn, có thể được cân bằng lại khi mức vitamin C trong máu được bình thường hóa (90–92). Hơn nữa, vitamin C có thể làm giảm sản xuất các cytokine có nguồn gốc từ bạch cầu gây viêm (ví dụ, TNFα và IL-6), thông qua việc điều chỉnh yếu tố phiên mã hạt nhân kappa B (NFkB) (2, 93, 94) theo ít nhất hai cách. : 1) thông qua dạng khử (ascorbate), bằng cách loại bỏ ROS tế bào và ức chế tín hiệu liên quan đến ROS để phiên mã NFkB (95–98); 2) thông qua dạng oxy hóa của nó (dehydroascorbate), được tạo ra như một hệ quả của việc dập tắt ROS, bằng cách ức chế trực tiếp hoạt động của một số kinase liên quan đến sự hoạt hóa qua trung gian TNFα của NFkB (p38 protein kinase hoạt hóa mitogen, IkB
kinase α và β) ( 99–101).
Tuy nhiên, tác động của vitamin C đối với sự cân bằng của các phản ứng cytokine (pro- và chống viêm) là rất phức tạp và dường như phụ thuộc vào loại tế bào và / hoặc tình trạng viêm (1). Hơn nữa, các tác giả (102, 103) gần đây đã gợi ý rằng vitamin C có thể tương tác với các con đường phân tử liên quan đến căng thẳng viêm và rối loạn chức năng miễn dịch trong nhiễm trùng huyết, liên quan đến các chất trung gian cụ thể: Thụ thể yếu tố tăng trưởng biểu bì (EGFR), Protein kích hoạt Mitogen-1 (MAPK1 ), Proto-Oncogene c (JUN), C – C chemokine Receptor loại 5 (CCR5), Mitogen Activated Protein Kinase 3
(MAPK3), Angiotensin II Receptor type 2 (AGTR2), Signal Transducer and
Activator of Transcription-3 (STAT3) ).
Tác động của vitamin C đối với chức năng miễn dịch cũng có thể được thể hiện thông qua các quy định biểu sinh, mặc dù chủ đề này vẫn còn chưa được hiểu rõ (104, 105). Việc tái tạo biểu sinh liên quan đến kích hoạt và biệt hóa tế bào miễn dịch bao gồm sửa đổi DNA và histone (106).
Vitamin C đóng một vai trò quan trọng bằng cách tăng hoạt động của các enzym biểu sinh, bao gồm protein chuyển vị mười mười một (TET) và histone demethylases chứa miền Jumonij-C (JHDMs)
(107). Trên thực tế, vì TET và JHDMs thuộc về siêu họ dioxygenase phụ thuộc Fe2 + / α-ketoglutarate (105), vitamin C, như ascorbate, có thể tặng điện tử, hoạt động như một đồng yếu tố cho các enzym này, làm giảm Fe3 + về dạng hoạt động xúc tác của nó (Fe2 +) (63). Các protein TET tham gia vào quá trình
khử methyl của các gốc cytosine trong DNA, trong khi các JHDM điều chỉnh quá trình methyl hóa các gốc lysine và arginine trong histone, dẫn đến các sửa đổi trong quá trình phiên mã gen (63, 108, 109) có liên quan đến phản ứng của cả bẩm sinh và hệ thống miễn dịch thích ứng (106, 110). Công dụng của các chức năng điều hòa gen mới được phát hiện gần đây của vitamin C đối với việc đánh giá các khuyến nghị về chế độ ăn uống vẫn chưa được làm sáng tỏ và cần nghiên cứu thêm để chỉ ra liều tối thiểu mà tại đó vitamin C có thể có tác động hiệu quả đến kết quả chức năng hoặc lâm sàng thông qua thay đổi biểu sinh (44).
REVIEW article
Front. Immunol., 28 October 2020 | https://doi.org/10.3389/fimmu.2020.574029