Người Việt ưa nịnh, thích 'dìm': Tác hại
đến đâu?
"Với một truyền thống văn hóa
"ưa được nịnh", "thích được khen", nhưng lại sợ phê bình và
tự phê bình đến như thế, nếu không tự thay đổi từ gốc rễ mà cứ đòi hỏi tiến bộ,
đòi hỏi "văn hóa từ chức"..., thì vẫn chỉ là mơ mộng mà thôi!" -
GS-TSKH Trần Ngọc Thêm.
GS-TSKH Trần Ngọc Thêm. Ảnh: Phạm
Thành Long/ Documentary.vn
|
LTS: Vừa qua, "Đại tướng quân Hai lúa" trở thành đề tài được
bàn luận sôi nổi. Mặc dù đây chỉ là một câu chuyện nhỏ, nhưng từ đó đã gợi ra
rất nhiều điều khiến chúng ta suy ngẫm, liên quan đến việc vì sao những sáng
tạo, thay đổi, cải cách của VN vẫn còn gặp nhiều rào cản và chậm bước so với
đòi hỏi của thời đại.
Chẳng hạn, so với các quốc gia
láng giềng trong khối ASEAN, như Myanmar, Campuchia, Lào, thì Việt Nam đổi mới
sớm nhất. Nhưng sau cú đột phá ngoạn mục vào năm 1986, chúng ta lại rơi vào trì
trệ, hiện nay nhiều người đã cảnh báo về nguy cơ tụt hậu...
Nguyên nhân văn hóa căn cốt ẩn
sau những vấn đề ấy chính là chủ đề của cuộc trò chuyện của Tuần Việt Nam với
GS.TSKH Trần Ngọc Thêm, Viện sĩ Viện hàn lâm Khoa học tự nhiên Nga, Ủy viên Hội
đồng lý luận Trung ương, Giám đốc Trung tâm Văn hóa học Lý luận và Ứng dụng
Trường Đại học KHXH&NV thuộc ĐHQG-HCM. Những câu trả lời của ông xoay
quanh một lý giải được ông khái niệm hóa là "Văn hóa âm tính".
"Biến đổi từ từ"
Thưa Giáo sư, là người có nhiều
năm nghiên cứu văn hóa VN, xin ông đưa ra một nhận định tương đối khái quát vì
sao những thay đổi của chúng ta thường diễn ra khó khăn và chậm hơn so với đòi
hỏi bức thiết của thực tế?
GS.TSKH Trần Ngọc Thêm: Tôi đã có quá trình nghiên cứu khá lâu về câu hỏi nhức
nhối này và đi đến kết luận rằng: "Văn hóa VN có đặc điểm là biến đổi từ
từ, không có đột biến, trừ trường hợp có ảnh hưởng hay tác động có yếu tố bên
ngoài như cuộc Cách mạng tháng Tám năm 1945 hay công cuộc Đổi mới năm
1986". Giờ
tôi xin nhắc lại để trả lời cho câu hỏi của anh.
Xuất phát từ đâu VN lại có đặc
điểm văn hóa như vậy, thưa ông?
GS.TSKH Trần Ngọc Thêm: Năng lực hành động và năng lực tư duy bắt đầu từ văn hóa.
Nói cách khác, văn hóa là cái gốc rễ của dân tộc. Phải hiểu sâu hơn về cội
nguồn gốc rễ đó thì mới lý giải được mọi chuyện, mọi vấn đề đặt ra, mọi vấn nạn
mà chúng ta đang thấy.
Theo phân loại của tôi, nền văn hóa Việt Nam của chúng
ta thuộc loại âm tính, mang những đặc trưng khác hẳn những nền văn hóa dương
tính. Văn hóa âm tính giống như tính cách của người đàn bà, thích sự ổn định và
luôn hướng tới sự ổn định, rất ngại mọi sự thay đổi. Văn hóa dương tính thì
ngược lại, giống tính cách người đàn ông, mạnh mẽ, quyết liệt, hay thay đổi,
ghét sự trì trệ, nhàm chán, v.v.
Khi nghiên cứu chúng ta tách ra chứ kỳ thực trong mỗi sự
vật, hiện tượng, con người... đều có phần âm và phần dương, cái khác nhau là ở
chỗ mặt nào trội hơn mà thôi.
Điều kiện tự nhiên là nguồn gốc của văn hóa. Thiên nhiên
khác nhau thì kinh tế cũng sẽ khác nhau, từ đó văn hóa ắt cũng sẽ khác nhau.
Các dân tộc có truyền thống mưu sinh bằng nông nghiệp trồng trọt là âm tính;
trong đó nông nghiệp lúa nước thuộc loại âm tính nhất. Các dân tộc sống bằng
chăn nuôi, du mục thuộc loại dương tính.
Trên thế giới mênh mông này chỉ có Đông Nam Á là cái nôi
của nền nông nghiệp lúa nước. Trồng trọt phụ thuộc vào thiên nhiên nhiều hơn
chăn nuôi, trồng lúa nước thì mức độ phụ thuộc cao nhất. Sự phụ thuộc khiến
người ta trở nên thụ động. Và cũng chính vì vậy mà nơi này có nền văn hóa âm
tính nhất.
Đông Bắc Á và phương Tây là những vùng đồng cỏ, thảo
nguyên mênh mông, con người thời cổ sống bằng kinh tế du mục, khiến con người
phải luôn phải rong ruổi, di chuyển. Điều này tác động đến lối suy nghĩ, dần
dần hình thành kiểu văn hóa dương tính, đối lập với văn hóa âm tính của chúng
ta.
Văn hóa Việt - Trung: Giống
nhau chỉ trên bề mặt
Nhiều công trình nghiên cứu
trong và ngoài nước khẳng định văn hóa VN chịu ảnh hưởng rất sâu rộng bởi nền
văn minh Trung Hoa, yếu tố cùng thể chế cũng chi phối sự ảnh hưởng này. Quan
điểm của ông ra sao?
GS.TSKH Trần Ngọc Thêm: Nhìn bề ngoài thì đúng là như thế, nhưng nếu chỉ dừng ở
cảm nhận bề ngoài thì ta sẽ chỉ có được những nhận xét cảm tính, phiến diện rất
đáng tiếc vì không đi vào bản chất gốc của sự việc! Văn hóa luôn là "mục
tiêu, động lực và nền tảng của sự phát triển" cho nên dù có sự tương
đồng về thể chế thì VN và TQ vẫn khác nhau rất nhiều.
Trên cơ sở nghiên cứu tài liệu, cũng như qua quan sát
thực địa tại nhiều địa phương khác nhau của TQ, tôi thấy rất rõ rằng những sự
giống nhau tuy nhiều nhưng thuộc về tầng mặt, trong khi những sự khác nhau thì
nằm ở tầng sâu, rất căn bản.
Một bên là văn hóa âm tính điển hình như VN, một bên là
loại hình văn hóa trung gian "vừa có âm vừa có dương" và có những
giai đoạn mặt dương có phần trội hơn như TQ thì làm sao giống nhau hoàn toàn
được. Chỉ có thể có những ảnh hưởng do tiếp xúc giao thoa, còn do có cái gốc
nền rất khác nhau nên bản chất cũng khác nhau.
Tính trung gian này của văn hóa TQ thể hiện rất rõ trong
lĩnh vực tổ chức xã hội. Trong khi xã hội phương Tây luôn biến động nên
coi trọng cá nhân, Đông Nam Á ưa ổn định, ít biến động nên coi trọng làng xã
thì Đông Bắc Á ở giữa, coi trọng gia đình.
Cụ thể là thế nào, thưa giáo
sư?
GS.TSKH Trần Ngọc Thêm: Văn hóa âm tính xuất phát từ nông nghiệp lúa nước nên có
sức mạnh tập thể rất cao. Chính nhu cầu thu hoạch mùa màng, bảo vệ cuộc sống đã
buộc mọi người phải chung tay, phải có mối liên kết ràng buộc chặt chẽ.
Tương tự như vậy, khi có ngoại xâm là bị đẩy vào thế
cùng, sức mạnh tập thể của văn hóa âm tính, sức mạnh làng xã sẽ trỗi lên chống
lại. Lúc ấy cả nước như một.
Đặc trưng rõ nhất của văn
hóa VN là vai trò cao của cộng đồng làng xã - đơn vị tế bào của xã hội Việt Nam . Từ làng ra
đến nước, tạo nên mô hìnhLàng - Nước. Trong
suốt chiều dài của lịch sử, TQ đô hộ ta cả ngàn năm, đánh chiếm ta bao nhiêu
lần mà ta không mất nước là nhờ việc cái gốc văn hóa Việt nằm ở làng chứ không
phải ở đô thị.
Quan quân TQ cai trị chỉ có thể đưa đến ở các đô thị chứ
không thể kiểm soát hết nông thôn, nên không thể tiêu diệt hay đồng hóa được
văn hóa Việt. Và do văn hóa làng quá mạnh nên cứ mỗi khi quân xâm lược rút đi
thì văn hóa làng lại tấn công trở lại đô thị, kéo đô thị trở về với văn hóa
làng. Đây là đặc trưng rất Việt, khác biệt với nhiều quốc gia khác có nền văn
hóa thiên về dương tính mà tại đó, đô thị luôn có lực hút kéo nông thôn biến
đổi theo thành thị.
Trong những cuộc đối đầu với các cuộc xâm lăng, chất âm
tính mạnh của văn hóa làng xã ấy đã phát huy tác dụng, giúp cho VN dù có trải
qua hàng ngàn năm lệ thuộc cũng không bị ảnh hưởng của đô thị lôi kéo, kết quả
là không bị văn hóa ngoại bang đồng hóa.
Trong khi đó, trong văn
hóa TQ và các nước Đông Bắc Á, do làm nông nghiệp lúa cạn, trồng kê mạch,
không cần liên kết lớn ở quy mô làng xã nên đơn vị cơ bản của xã hội là gia
đình. Từ gia đình (nhà) ra đến nước, tạo nên mô hình Quốc gia - Nhà nước.
Đặc trưng của gia đình là tôn ti trật tự, có trên có
dưới. Ra xã hội cũng vậy, "trên bảo thì dưới phải nghe" là nguyên tắc
tối thượng. Nó khác với VN ta ngày xưa là "phép vua thua lệ làng",
hay ngày nay là hiện tượng "trên bảo dưới không nghe", "thủ kho
to hơn thủ trưởng", v.v...
Bởi vậy mà trong văn hóa TQ, ý chí luận rất mạnh. Họ có
thể làm được những việc "kinh thiên động địa" như xây Vạn lý Trường
thành thời Tần Thủy Hoàng, hay "chiến dịch diệt chim sẻ" vào những
năm 1958-1962 khiến cho sau đó châu chấu tràn ngập phá nát mùa màng và kéo theo
nạn đói lớn làm cho nhiều người chết đói.
Văn hóa TQ hướng đến cái tuyệt đối, cực đoan kiểu
"đội đá vá trời", "Ngu Công dời núi", "Tinh Vệ lấp
biển", "toàn dân làm gang thép", "toàn dân diệt chim
sẻ". Trong khi văn hóa VN do thiên về âm tính nên hướng đến sự dung hòa
theo triết lý âm dương. Theo đó, làm cái gì cũng hướng tới mục tiêu "vừa
phải", không thấp quá nhưng cũng đừng cao quá, "trông lên thì chẳng
bằng ai, trông xuống chẳng ai bằng mình".
Tư duy "vừa phải", ưa
khen ngợi
Đứng từ góc độ này thì có thể
thấy hai nền văn hóa rất khác nhau về bản chất. Vậy tư duy "vừa phải"
mà ông vừa nói tác động đến ta thế nào - trong tính cách cá nhân, cộng đồng, xã
hội...?
GS.TSKH Trần Ngọc Thêm: Tư duy "vừa phải" là đặc điểm cố hữu của người
nông dân Việt. Thấy ai khó khăn thì mọi người xung quanh xúm lại giúp cho vươn
lên, đó là mặt tốt đẹp. Nhưng ngược lại, nếu thấy có ai vươn lên cao hơn thì
mọi người cũng thường xúm lại, cùng nhau kéo xuống, để về sau không ai còn dám
nghĩ đến chuyện nổi trội lên nữa!
Ở VN ta, những người tài giỏi xuất sắc trong một cơ hay
bị dèm pha, đố kỵ. Mà ở đời thì anh nào giỏi, làm nhiều thì hay có sai nhiều.
Do "ghen ăn tức ở" (hiện nay lớp trẻ gọi tắt là thói GATO) và tâm lý
muốn giữ lấy cái sự ổn định, bình yên cho mình mà người ta sẽ săm soi, bới móc
thổi phồng, biến cái lỗi nhỏ thành to, thậm chí đặt điều nói không thành có.
Khi cả tập thể đã xúm vào "trị" anh giỏi mà
lãnh đạo lại non tay thì ông ta sẽ không bảo vệ người giỏi nữa và ngả theo số
đông. Đó là một lý do lớn khiến nhiều người phải từ bỏ môi trường nhà nước,
hoặc thậm chí ra nước ngoài tìm đất phát triển khả năng.
Với tư duy "vừa phải" như thế, ở VN không thể
có những công trình vĩ đại như Vạn lý Trường thành, Kim tự tháp hay Angkor . Những cái kỳ vĩ đó chỉ có thể là sản phẩm của lối
tư duy tuyệt đối theo kiểu văn hóa dương tính, đối lập với tư duy "vừa
phải" của ta.
Mặt khác, văn hóa âm tính giống như người phụ nữ, thường
chỉ thích nghe và tin là thật những lời khen nịnh. Vì vậy mà người VN ta thường
không thích bị chê, kiểu "Tốt đẹp phô ra, xấu xa đậy lại", "Đừng
vạch áo cho người xem lưng". Có ai đụng đến khuyết tật gì của mình là lập
tức thanh minh thanh nga, tìm cách trốn tội, "đá quả bóng sang chân người
khác".
Cả hệ thống quản lý nếu không tỉnh táo, sáng suốt, thì
cũng bị nền văn hóa âm tính này chi phối và phạm phải những quyết định sai lầm.
Chẳng hạn, mấy năm qua có một tổ chức quốc tế thường khảo
sát các giá trị ở các quốc gia qua thăm dò dư luận. Khi họ công bố kết quả rằng
VN là đất nước có chỉ số hạnh phúc cao vào loại gần nhất thế giới thì chỗ nào
cũng phấn khởi đưa tin, lên tiếng phụ họa. Nhưng khi cũng chính tổ chức này
công bố kết quả rằng ngành nọ ngành kia của Việt Nam do tham nhũng, đút lót
nhiều mà có chỉ số hài lòng thấp thì ngay lập tức, tổ chức đó bị phản ứng.
Với một truyền thống văn hóa "ưa được nịnh",
"thích được khen", nhưng lại sợ phê bình và tự phê bình đến như thế,
nếu không tự thay đổi từ gốc rễ mà cứ đòi hỏi tiến bộ, đòi hỏi "văn hóa từ
chức"..., thì vẫn chỉ là mơ mộng mà thôi!
Liệu có "liều thuốc"
nào giải được văn hóa âm tính? Mời độc giả theo dõi câu trả lời của GS. Trần
Ngọc Thêm trong Phần 2 của bài phỏng vấn.
Làm thế nào VN có 'những cú thay đổi
ngoạn mục'?
"Một nền văn hóa âm tính đậm
đặc, với những con người lúc nào cũng chỉ lo "ổn định" luôn có một
lực lượng bảo thủ không cho phép phái cấp tiến làm gì tới nơi tới chốn" -
GS.TSKH Trần Ngọc Thêm.
LTS:"Văn hóa âm tính", đặc tính "biến đổi từ từ"
chi phối ra sao đến sáng tạo, đổi mới tại VN? Làm sao khắc phục điều này?... Đó
là nội dung Phần
2 cuộc trò
chuyện của Tuần Việt Nam với GS.TSKH Trần Ngọc Thêm, Viện sĩ Viện hàn lâm Khoa
học tự nhiên Nga, Ủy viên Hội đồng lý luận Trung ương, Giám đốc Trung tâm Văn
hóa học Lý luận và Ứng dụng Trường Đại học KHXH&NV thuộc ĐHQG-HCM.
Mặt trái của sự ổn định kéo dài
Ở phần trước,
GS đã bàn đến những tác động của tư duy "vừa phải" đến tính cách cá
nhân, cộng đồng, xã hội. Ở tầm vĩ mô hơn, tác động của nó ra sao đến bộ máy, cơ
chế vận hành đất nước?
GS.TSKH Trần Ngọc Thêm: Xuất phát từ tư duy "vừa phải", nền văn hóa âm
tính luôn hướng tới sự ổn định. Ổn định là đứng yên, mọi sự thay đổi, phát
triển đều bị chống lại, bị kìm hãm. Và cả một bộ máy, cả cơ chế đều hướng tới
sự ổn định, phục vụ và gìn giữ cho sự ổn định đó. Cái mới xuất hiện thường bị
dị ứng, bị xem là "có nguy cơ mất ổn định" rất cao.
Muốn phát triển thì phải có đột phá, thay đổi hiện trạng,
và phải có người giỏi để làm việc này. Nhưng như tôi đã nói, văn hóa âm tính
của ta sẽ "kéo" người giỏi nào muốn nổi trội lên. Và toàn bộ người
Việt chúng ta đều thấm nhuần đức khiêm tốn, coi đó không chỉ là đạo đức mà còn
là cách sống.
Các nền văn hóa dương tính như phương Tây không như vậy.
Họ được giáo dục sự trung thực, nói về mình như mình thực có. Họ quan niệm tự
cao tuy có thể vấp ngã, nhưng sau vấp ngã sẽ học kinh nghiệm mà đi lên, còn
khiêm tốn thì không.
Ai cũng ngại thay đổi, xáo trộn. Vì vậy, khi chọn người
chẳng hạn, người ta sẵn sàng "bầu" cho người không có gì đặc sắc
nhưng được cái là lúc nào cũng vui vẻ, xởi lởi, hòa đồng với mọi người, ai nói
gì cũng gật.
Dường như đặc tính thích
"ổn định" này cũng chi phối lớn đến quan niệm về tài năng và cách sử
dụng người tài ?
GS.TSKH Trần Ngọc Thêm: Cũng vì thích sự ổn định nên người VN thường thích người
dễ bảo, thích nghe lời. Trong gia đình thì thích "con ngoan", biết
vâng lời chứ không phải biết sáng tạo. Còn trong nhà trường thì muốn "trò
giỏi", nhưng "giỏi" ở đây phải hiểu là học thuộc bài, làm văn
cũng phải theo văn mẫu của thầy cô đưa ra.
Cho nên người VN với bản tính linh hoạt chỉ giỏi sáng tạo
vặt, biến báo, kiểu Trạng Quỳnh, thích ăn may kiểu Trạng Lợn, nói dóc kiểu Ba Phi,
còn sáng tạo kiểu làm máy bay, tầu ngầm, chế tạo xe tăng thì nhẹ sẽ bị coi là
"có vấn đề".
Với nền giáo dục như thế này thì làm sao đào tạo cho ra
những những nhà phát minh, nhà bác học, nhà văn hóa lỗi lạc?
Trong quản lý xã hội, nhiều lãnh đạo ở các cấp đều thường
chọn cấp phó, người giúp việc thấp hơn mình từ một đến vài "cái đầu".
Người ta cho rằng làm như thế thì mới đảm bảo "ổn định", trước hết là
"ổn định" vị trí của mình.
Cách làm đó vô hình trung đã tạo nên một "cơ chế
loại bỏ người tài" ra khỏi bộ máy. Thậm chí trong xã hội cũng không có đất
cho họ dụng võ vì những ràng buộc đạo đức, pháp luật luôn chống lại nguy cơ làm
"mất ổn định".
Nghe ông nói tôi không khỏi
liên hệ đến những câu chuyện "Đại tướng quân" hay phát minh, sáng chế "Hai lúa" được nhắc đến rất nhiều gần
đây?
GS.TSKH Trần Ngọc Thêm: Phải, với những đặc điểm tôi đã phân tích, không có gì
ngạc nhiên khi thấy những sáng chế, phát minh hay sáng kiến cải tiến khoa học
kỹ thuật trong nước ít khi được quan tâm, ngược lại có khi còn bị o ép.
Như chuyện ông Phan Bội Trân ở TP.HCM bỏ tiền của, trí
tuệ công sức ra chế tạo tàu ngầm mi-ni mà phải "lên bờ xuống ruộng"
khi cho chạy thử nghiệm...
Như chuyện ông Hải máy bay, có thể có vị Bộ trưởng sẽ trả
lời rằng việc này là do "cơ chế bên Campuchia thoáng hơn ở ta... Và ta
không có nhu cầu sửa chữa xe quân sự vì đã có đơn vị chuyên môn làm rồi".
Điều này có thể đúng. Nhưng nó cũng đồng thời cho thấy nền văn hóa âm tính luôn
kìm hãm sáng tạo, dị ứng với thay đổi đã chi phối mạnh mẽ đến mức nghiệt ngã
vào hệ thống quản lý xã hội.
Nguy cơ của nền văn hóa âm tính vô cùng lớn nếu không
biết phát huy mặt mạnh và khắc phục những mặt trái của nó, thoát ra khỏi
"vũng lầy ổn định" của nó.
Không thể "cứ từ từ"
mãi
Theo GS, chắc phải có giải pháp
nào cho "căn bệnh" âm tính, truyền thống biến động
từ từ của chúng ta chứ?
GS.TSKH Trần Ngọc Thêm: Nghiên cứu lịch sử, tôi nhận thấysự "biến động từ
từ" như một quy luật ấy có thể thúc đẩy cho nhanh hơn lên nếu có được sự
kết hợp ở những mức độ khác nhau của ít nhất 3 trong số 4 điều kiện: (1) Cuộc
sống của toàn dân chúng rơi vào (hoặc gần như rơi vào) tình trạng đặc biệt khó
khăn, bế tắc; (2) Có một vị minh quân, minh chúa, tức một nhà lãnh đạo mạnh mẽ,
sáng suốt, tận tâm tận lực vì dân; (3) Có một cú hích từ bên ngoài và (4) Mỗi
người nhìn ra xung quanh thấy người khác khá hơn mình và bản thân mình có nhu
cầu thay đổi hiện trạng.
Trong đó, điều kiện 1 thuộc về văn hóa vật chất - mưu
sinh; điều kiện 2 thuộc về văn hóa chính trị; điều kiện 3 thuộc về ngoại lực;
điều kiện 4 thuộc về văn hóa tính cách, tinh thần.
Cuộc Cách mạng tháng Tám năm 1945 là một trường hợp đột
biến nhờ hội tụ ở mức rất cao ba điều kiện đầu: 1/ Cuộc sống của dân chúng dưới
thời thực dân, phát xít Nhật rơi vào bước đường cùng, hàng triệu người chết
đói. 2/ Cái tên "Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh" có sức mạnh như một
lời hiệu triệu thu hút quần chúng. 3/ Chiến tranh thế giới kết thúc, Nhật đầu
hàng Đồng minh vô điều kiện.
Công cuộc Đổi mới năm 1986 là một trường hợp đột biến
khác cũng hội đủ cả ba điều kiện đầu, nhưng ở mức thấp hơn: 1/ Cuộc sống kinh
tế của cán bộ nhân dân ba miền ở mức rất khó khăn. 2/ Tổng bí thư Trường Chinh
là một nhà lãnh đạo có uy tín và tận tâm tận lực vì dân. 3/ Công cuộc Cải tổ
(Perestroika) của Liên Xô cũng vừa lúc bắt đầu.
Nếu nói về "cú hích từ bên
ngoài" thì hiện nay VN đang có rất nhiều đấy chứ, thưa GS? Chẳng hạn VN
hiện đang là thành viên của nhiều tổ chức lớn trên thế giới và khu vực như WTO,
AFTA, NAFTA, v.v... tất cả đều yêu cầu ràng buộc VN phải cải cách, cải tổ theo
hướng chung của thế giới?
GS.TSKH Trần Ngọc Thêm: Đúng là VN đang có những tác động bên ngoài, nhưng chúng
chưa đủ sức tạo nên những thay đổi mang tính đột biến. Ta đã bỏ lỡ nhiều cơ hội
lớn từ sau Đại hội 6 năm 1986.
Những năm 1990 là thời mà chính sách Mở cửa đã bắt đầu
phát huy tác dụng, đời sống một bộ phận dân chúng khá lên đã kích thích toàn xã
hội hừng hực, hứng thú làm giàu. Giai đoạn này, ngoài 3 điều kiện đầu cho sự
phát triển đột biến của VN mà chúng tôi đã nói ở trên, điều kiện thứ 4 là
"Mỗi người nhìn ra xung quanh thấy người khác khá hơn mình và bản thân
mình có nhu cầu đó" đã hiện hữu ở mức cao.
Tuy nhiên, bước sang những năm 2000, dễ quan sát thấy
rằng xã hội VN đã không còn sự phấn đấu hăng say như những năm 1990 nữa, dù VN
đã hội nhập nhiều hơn, sâu rộng hơn với thế giới. Một bộ phận đáng kể trong cán
bộ và dân chúng thấy rằng mình đã thoát khỏi tình trạng cùng cực và đã chuyển
sang được trạng thái "trông lên thì chửa bằng ai, nhưng trông xuống thì
chẳng ai bằng mình" nên đã hài lòng mà chững lại.
Cần một hệ giá trị mới
Vào thế kỷ 17, 18 tiếp xúc với
văn minh phương Tây, chúng ta cũng có cơ hội cải cách rất lớn giống như Nhật
Bản. Tự Đức là vị vua thông minh, có tài, có năng lực và tầm nhìn song vẫn thất
bại, trong khi Nhật hoàng lúc ấy là cậu bé 3 tuổi mà cuộc cải cách của Nhật lại
thành công. Chúng ta có thể rút ra kinh nghiệm gì từ thất bại này?
GS.TSKH Trần Ngọc Thêm: Khu vực Đông Bắc Á vốn thuộc loại hình trung gian
chuyển tiếp. Văn hóa của Nhật có độ dương tính cao nhất trong số các quốc gia ở
đây nên người Nhật không làm thì thôi, còn khi đã nhận thức ra thì họ làm tới
nơi tới chốn. Trong lịch sử, họ thường có cách làm là tiếp thu cái mới rồi đóng
cửa lại thẩm thấu, sửa chữa, nâng cấp rồi phát huy.
Trước kia, Nhật đã từng tiếp nhận văn hóa Trung Hoa theo
cách như thế. Rồi khi người Nhật phát hiện họ thua châu Âu, họ bắt tay cải cách
ngay. Từ "thoát Á luận" cho đến "thoát Á, nhập Âu", người
Nhật đã đề ra mục tiêu nhận thức rất rõ ràng, thoát hẳn khỏi cái cũ, nhập hẳn
vào cái mới chứ không lơ lửng. Bên cạnh vua Minh Trị, cả dân tộc Nhật, cả nền
văn hóa đều cùng chung mục đích và quyết tâm nên họ tiếp thu và cải cách thành
công.
Còn chúng ta, do thuộc loại hình văn hóa âm tính cho
nên trong khi vua Tự Đức và vài nhân vật khác có tầm nhìn rộng và xa hơn nên
thoát được, nhưng lại bị số đông bảo thủ kiềm xuống, lôi kéo trở lại. Cả triều
đình không muốn thoát thì một mình vua cũng không làm được gì hơn.
Một nền văn hóa âm tính đậm đặc, với những con người lúc
nào cũng chỉ lo "ổn định" luôn có một lực lượng bảo thủ không cho
phép phái cấp tiến làm gì tới nơi tới chốn.
Bởi vậy mà VN rất khó có thoát ra được hoàn cảnh mà ta bị
đặt vào, để có được những cú thay đổi ngoạn mục như Nhật Bản hay Hàn Quốc là
các quốc gia Đông Bắc Á thuộc loại hình văn hóa trung gian. Dù có bậc minh
quân như Tự Đức hay ai khác mà nếu chưa hội đủ cả 4 điều kiện như tôi đã đề cập
thì cũng rất khó.
Với sự tiến bộ của khoa học kỹ
thuật, đặc biệt là công nghệ thông tin, cả thế giới ngày nay trở thành một ngôi
nhà chung. Ắt rằng, chúng ta sẽ còn có nhiều "cú hích" tác động vào.
Vậy theo GS, để tận dụng thời cơ quốc tế hóa cao độ như hiện nay, chúng ta phải
làm gì nhằm tạo được sự thay đổi đột phá mạnh mẽ cho kịp với các nước?
GS.TSKH Trần Ngọc Thêm: Từ những điều trình bày trên, có thể thấy rất rõ nguyên
nhân sự trì trệ sâu xa là nằm trong văn hóa và con người. Chính bởi vậy mà
Nghị quyết 33 của Hội nghị Trung ương 9 khóa XI đã đặt vấn đề "xây dựng
và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững
đất nước".
Nhưng chỉ Nghị quyết không thôi thì chưa đủ. Để xây dựng
và phát triển văn hóa - con người thì cần phải thay đổi hệ giá trị. Thực ra,
hệ giá trị VN tự nó đang biến động rất mạnh. Vấn đề là cần sớm nhận thức được
xu hướng biến động, góp phần điều chỉnh và định hướng sự thay đổi đó từ tự phát
thành tự giác, theo hướng có lợi nhất, để tạo nên sự phát triển đột biến một
cách sớm nhất.
Trong một Chương trình KH & CN trọng điểm cấp Nhà
nước mà tôi đang làm chủ nhiệm, chúng tôi nghiên cứu và phân tích kỹ sự biến
động của hệ giá trị VN trong quá trình chuyển đổi từ văn hóa làng xã đến văn
hóa đô thị, từ văn hóa nông nghiệp đến văn hóa công nghiệp, từ văn hóa khép
kín đến văn hóa trong thời kỳ toàn cầu hoá và hội nhập. Một trong những
trọng tâm là phân tích kỹ nguyên nhân dẫn đến biết bao nhiêu thói hư tật xấu
của con người VN hiện nay. Bởi lẽ muốn thay đổi để đi lên, để phát triển thì
phải xóa hết các nguyên nhân gây ra những tật xấu đó.
Chẳng hạn, tính cộng đồng tự nó không xấu, nhưng cộng
đồng kiểu làng xã là gây ra sự cào bằng, bệnh sĩ diện, bệnh thành tích...; tính
cộng đồng tình cảm gây ra tật thiếu ý thức, không tuân thủ pháp luật...; sự kết
hợp của nhiều đặc trưng gây ra quốc nạn dối trá, tham nhũng... Vì vậy phải thay
đổi cộng đồng tình cảm bằng cộng đồng lý trí; thay cộng đồng làng xã bằng cộng
đồng xã hội, tức coi trọng quyền lợi xã hội chứ không phải của một làng hay của
một nhóm lợi ích, v.v... Trên cơ sở đó đề xuất một hệ giá trị VN mới.
Tuy nhiên, đề xuất một hệ giá trị VN mới mới chỉ là
bước khởi đầu. Để đưa hệ giá trị đó vào cuộc sống, để tạo ra những con người
VN mới thì cần có quyết tâm rất cao của cấp lãnh đạo cao nhất và sự đồng lòng
của toàn dân. Được như vậy, VN mới có thể thoát ra khỏi căn bệnh trì trệ của
truyền thống văn hóa âm tính, tạo nên một bước phát triển đột biến mới trong
giai đoạn hiện đại.
Xin cảm ơn GS!
Duy Chiến (thực hiện)
Văn hóa âm tính do bản chất con người tuy nhiên môi trường xã hội đóng vai trò quyết định. Phải phân tích diễn tiến của văn hóa âm tính qua thời gian tác động bởi môi trường xã hội. Khi so sánh cần có nhóm chứng lịch sử hay nhóm tự chứng có thể trong nước ngoài nước....?